Tinh thần nhập thế của Ngô Thì Nhậm

15:55 02/02/2021

THÍCH CHẤN ĐẠO

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một Thiền phái nhất tông mang tinh thần nhập thế tích cực đã góp phần quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Ảnh: internet

Tinh thần “Cư trần lạc đạo” của Thiền phái đã ảnh hưởng vào đời sống sinh hoạt của dân tộc một cách sâu đậm và kéo dài cho đến hôm nay. Xét riêng vào thế kỷ XVIII, tinh thần này đã giúp cho các sĩ phu bấy giờ thoát khỏi những bế tắc trong kiến trúc thượng tầng. Nổi bật lên có Ngô Thì Nhậm được xem là vị tổ thứ tư của Thiền phái với pháp hiệu là Hải Lượng đại thiền sư.

Giai đoạn Ngô Thì Nhậm sống là giai đoạn rối ren của lịch sử Việt Nam. Giai đoạn mà triều chính rỗng mục tận gốc, vừa có vua lại có chúa. Biến động triều quyền diễn ra liên tục, sáng sớm chiều vua, ba bè bảy mối tranh giành quyền lực. Trước thực trạng đó nhiều nhân sĩ đương thời đã ẩn dật để giữ gìn thanh tiết, lui về với tư tưởng của Đạo giáo. Riêng Ngô Thì Nhậm đã vượt qua những lời dị nghị, những quan điểm của Nho gia để đi theo Tây Sơn phục vụ xã tắc. Mặc dù bước ra từ cửa Khổng sân Trình nhưng ông đã theo con đường của sơ Tổ Trần Nhân Tông, nhị Tổ Pháp Loa và tam Tổ Huyền Quang, mang khát khao dấn thân nhập thế, kiến tạo nhân sinh trên nền tảng tư tưởng Phật giáo. Bài viết này bỏ qua tinh thần nhập thế của Nho giáo bởi thời bấy giờ ý thức hệ Nho giáo đã lung lay tận gốc, chỉ xét trên phương diện nhập thế của Phật giáo.

Con đường nhập thế dấn thân trước hết cần vượt qua những cám dỗ lợi danh địa vị chức quyền, tham lam ích kỷ, nhận chân được giá trị của tự tâm sau đó mới hòa mình vào chốn hồng trần mà không bị bụi đời vướng bận. Ngô Thì Nhậm đã đi con đường đó để khẳng định tấm lòng vì lợi ích của quần chúng nhân dân, vì sự an bình cho lê dân trăm họ.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng:

“Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác”


(Phật pháp ở thế gian
Không có việc rời khỏi thế gian mà giác ngộ).

Đến thời Trần, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông chuyển thành một quan điểm rất thiết thực, đó là quan điểm Cư trần lạc đạo. Sự tu tập giải thoát không đi ra ngoài cuộc đời, Bồ Đề không ngoài phiền não, Phật không ngoài chúng sinh. Không chỉ tu tập ngay trong cuộc đời này để giải thoát mà còn dấn thân phục vụ, cứu khổ ban vui cho chúng sanh bằng tâm- hạnh- nguyện của một vị Bồ tát.

Tinh thần nhập thế được xem là điểm nổi bật của Phật giáo Việt Nam. “Tinh thần này đã có từ thời Phật giáo mới vào Việt Nam, đồng hành cùng dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước, trải qua các đời Ngô, Đinh, Tiền Lê… giành độc lập tự chủ, rồi phát triển mạnh ở các triều đại sau” [5, tr.101]. Đời Trần, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với quan điểm cư trần của Trần Nhân Tông - người sáng lập tông phái đã đưa Phật giáo đi vào cuộc đời làm lợi cho xã hội một cách tích cực. Những nhân vật vua chúa, quan lại, tướng sĩ thời Trần là minh chứng rõ ràng nhất. Họ vừa phục vụ, xây dựng đất nước vừa tu tập giải thoát. Vì đề cao Phật tại tâm nên khi dấn thân nhập thế không bị vòng danh lợi bó buộc, không bị bụi trần làm vướng bận. Trong Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông viết:

“Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”

Cho thấy rằng quan điểm tu không phải ở rừng mà đề cao tính nhập thế không bị ô nhiễm. Nhận rõ tự tánh, thấy Phật tại tâm và không còn bị ràng buộc lợi danh nên tu Phật cũng chính là dấn thân nhập thế cứu độ chúng sanh. Tinh thần này đã làm nên thời kỳ vàng son của lịch sử Việt Nam dưới thời Trần. Ngô Thì Nhậm tiếp thu tư tưởng Phật giáo và quan trọng hơn hết, ông đã thâm hiểu chủ trương nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử một cách rốt ráo. Trong sáng tác của mình, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện mình là một con người tận lực vì nhân dân, xã tắc. Nhưng trước những biến chuyển của cuộc đời, của thế sự quyền hành danh lợi mà khuôn thước của Nho gia không còn giữ vững khiến ông ưu tư nhiều hơn nữa. Như ngọn hải đăng giữa biển khơi đêm tối, tinh thần từ bi và trí tuệ của Phật giáo đã định hướng tư tưởng cho Ngô Thì Nhậm. Ông đã vận dụng Phật giáo vào sự nghiệp xây dựng xã hội, ra sức kiến tạo con đường vì nhân dân.

Thơ văn của Ngô Thì Nhậm đã thể hiện tấm lòng nhập thế tích cực. Khi không còn nhận bổng lộc của triều đình, ông vẫn phục vụ nhân dân. Ông viết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh không ngoài mục đích kiến tạo một hệ ý thức phù hợp cho xã hội đương thời. “Động cơ sáng tác của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là lòng yêu nước thương dân, ưu tư cho vận mệnh của đất nước. Mục đích cứu cánh mà tác phẩm nhắm đến cũng là giải quyết những loạn lạc bất ổn xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XVIII, với mục đích đoàn kết để tạo nên sức mạnh toàn dân tộc nhằm phục hưng đất nước. Nội dung chủ đạo của tác phẩm là khôi phục, xiển dương tư tưởng nhập thế yêu nước trên tinh thần vô ngã của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, lấy đó làm cơ sở lý luận về mặt tư tưởng nhằm hóa giải những chống trái của các tầng lớp xã hội mà cụ thể là Phật tử, Nho sĩ và Đạo sĩ.”[5, tr.102]

Ngay từ đầu, Ngô Thì Nhậm đã chọn con đường đi của Tam Tổ Trúc Lâm để tiếp bước. Trong bài Thưởng liên đình phú, ông đã nói rõ:

“Nội khởi dịch lâm chi thi thất hề, ngoại cấu trúc làm chi thiền đường”.

(Trong dựng nhà Dịch Lâm mà bói cỏ thì chừ, ngoài xây Thiền đường thờ tổ Trúc Lâm).

“Phỉ viễn cầu ư Bồng doanh hề, ngụ “Tam tổ” chi thâm chí”

(Chẳng mơ tìm thú cõi tiên chừ, theo Tam Tổ mà hướng bước) [7, tr.94].

Con đường mà Tam Tổ đi đó là sự dấn thân không mỏi mệt vì cuộc sống của nhân dân. Tổ Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đều từ bỏ danh lợi, tu tập giáo pháp giải thoát và hành Bồ Tát hạnh cứu độ chúng sanh. Tam Tổ đã đem đạo lý từ bi của đạo Phật phục vụ và chăm lo cho nhân dân, hướng dẫn nhân dân tu thân hành thiện, giữ gìn ổn định xã hội. Trước những thực tại khách quan, Ngô Thì Nhậm đã nhìn ra con đường cần phải đi của xã hội đương thời.

Trong bài Thứ Thái sử thự đình hầu, ông đã thể hiện chí lớn không sờn của một người khát khao phụng sự.

“Hàn nho thiêu chúc tái tư lương
Tráng chí hoàn nghi lão ích đương”


(Nho nghèo chong nến, suy lại tính đi
Chí lớn vẫn nên càng già càng mạnh) [7, tr.304]

Chí lớn xây dựng cuộc sống bình ổn luôn sôi sục trong con người ông. Và có lúc ông cười cho thế sự đao binh rồi lại đem ngọc lụa để giao hòa.

“Ký mâu kích chi tường tầm hề, nãi ngọc bạch chi tương lân”

(Đã gươm đao giết hại lẫn nhau chừ, lại ngọc lụa để hòa giao) [7, tr.72]

Cuộc đao binh khiến nhân dân lầm than, cơ cực đã thôi thúc vào trong tâm hồn những người như ông một mong muốn:

“Hà thời vũ khố thác cung thỉ
Hạc cốt sương đề phản cố lâm”


(Bao giờ đút túi cung tên cất vào kho vũ khí
Xương hạc, móng sương trở về rừng xưa) [7, tr.305]

Nhưng rồi cuộc thế biến chuyển, chiến tranh vẫn cứ diễn ra khiến ông luôn để tâm hướng đến việc nước việc dân. Ông mong muốn đem thân vận động, đem lòng điều chỉnh kỷ cương phép tắc:

“Dư quan phù vân hề, bát hoang tất tại minh đình. Cẩu năng mục chi sở cập, túc chi sở kinh, khả dĩ ngô lực vận động. Ngô kính dinh, tuy đạo nguy lý hiểm, diệc bất phụ hồ bình sinh.”

(Ta nhìn mây kia, tất bay qua khoảng sân rộng bao la của tám cõi. Nếu mắt mà nhìn trời, chân mà dạo qua, thì có thể đem sức mà vận động, đem lòng ta mà điều chỉnh. Dù có dẫm đạp trên con đường nguy hiểm, cũng không phụ bạc với bình sinh của ta.) [7, tr.68]

Ngô Thì Nhậm thấy vui khi:

“Lão giả an chi, thiếu giả hoài chi”
(Người già được an vui, trẻ thơ được ẵm bế) [10, tr.296]

Khát vọng của ông là tế độ chúng sanh theo tinh thần từ bi của Phật giáo:

 “Thiên ý chi sở tồn giả, dĩ kỳ năng tế độ chúng sanh”
(Cái mà ý trời muốn lưu giữ lại là cứu vớt chúng sanh) [10, tr.316]

Nếu nhìn vào thực tế xã hội Đại Việt thời bấy giờ thì tế độ chúng sanh chính là cứu vớt, chăm lo cho bách tánh lê dân trong cơn dầu sôi lửa bỏng, là mong cho chiến tranh chấm dứt. Cũng vì thế mà Ngô Thì Nhậm bày tỏ quan điểm của mình về bổn phận và trách nhiệm của Vua quan là phải thương yêu dân chúng, nếu không là làm trái ý của trời.

“Vi nhân quân nhi bất nhân, vi nhân phụ chi bất từ, vi thiên ý giả”
(Làm vua mà không có lòng nhân ái, làm cha mà không có đức từ thân là trái với ý trời) [10, tr.319].

Ngô Thì Nhậm viết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh không ngoài mục đích tiếp nối tinh thần nhập thế tích cực để lo cho dân cho nước. “Có thể khẳng định, tâm hồn thiền của Ngô Thì Nhậm trước sau vẫn là tâm hồn của những người theo Thiền học Trúc Lâm - một Thiền học Việt Nam luôn kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần đạo lý với tinh thần dân tộc. Đó cũng là thiền học của một con người luôn nặng lòng yêu nước, yêu đời, xả thân nhập thế.” [1, tr.35].

Phật giáo Việt Nam mà sự hình thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã làm cho tư tưởng Phật giáo thiết thực hơn. Phật giáo không đi ngoài cuộc sống, con người tu giải thoát không đi ra ngoài cuộc đời, không lánh xa trần thế mà là sự dấn thân nhập thế vì nhân quần xã hội. Ngô Thì Nhậm đã tiếp nối tư tưởng ấy để xiển dương Phật giáo, cũng là xây dựng xã hội, cứu giúp nhân dân.

Ngô Thì Nhậm sớm được tiếp xúc với Phật giáo, ảnh hưởng trực tiếp từ cha của mình nên ông đã để tâm đến việc học Phật, nghiên cứu Thiền tông. Ông đã vượt qua những quan niệm của Nho giáo, thoát khỏi vướng bận trong vòng danh lợi, chức tước, quyền lực mà khát khao phục vụ nhân dân, tế độ chúng sanh.

Ngô Thì Nhậm đã bước theo con đường của Tam Tổ Trúc Lâm nhập thế tích cực. Ông lập Thiền viện Trúc Lâm ở phường Bích Câu (Ba Đình - Hà Nội) nghiên cứu và viết nên bộ Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh rất hay, vừa có giá trị triết học Phật giáo vừa có giá trị văn học. Chính ông xem đây là bài giảng về tư tưởng Phật học để phổ biến cho quần chúng, hướng dẫn hậu học tiếp nhận những giá trị thiết thực của Phật giáo. Ngô Thì Nhậm là một nhà tư tưởng lớn của thế kỷ XVIII, có vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà.

T.C.Đ
(SHSDB39/12-2020)

-------------------------
Tài liệu tham khảo:

1. Trần Ngọc Ánh (2003), “Ngô Thì Nhậm - tấm gương sáng về đạo làm người trong thời kỳ biến loạn lịch sử”, Tạp chí Triết học, số 5 (144), tr 32-35.
2. Doãn Chính (2012), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Thích Phước Đạt (2013), Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền Phái Trúc Lâm, Nxb. Hồng Đức.
4. Nguyễn Duy Hinh (2006), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
5. Trần Hoàng Hùng (2013), Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại, Luận án Tiến sĩ, trường ĐHKHXH-NV Tp. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Lang (2014), Việt Nam Phật giáo sử luận toàn tập, Nxb. Văn học, Hà Nội.
7. Ngô Thì Nhậm (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 1, Mai Quốc Liên (Chủ biên), Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, Hà Nội.
8. Ngô Thì Nhậm (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 2, Mai Quốc Liên (Chủ biên), Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, Hà Nội.
9. Ngô Thì Nhậm (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 3, Mai Quốc Liên (Chủ biên), Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, Hà Nội.
10. Ngô Thì Nhậm (2006), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 5, Lâm Giang (chủ biên), Viện KHXH Việt Nam- Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Trần Thị Băng Thanh (2003), “Ngô Thì Nhậm - một tấm lòng Thiền chưa viên thành”, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (58), tr 8-20.  



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...