Nơi đây không chỉ có những rặng hoa biếc xanh, những vườn thanh trà mát bóng, mà còn có cả những cánh đồng loa kèn mơ màng, trắng ngần ướp đậm thêm nỗi nhớ về xứ Huế. Sau mùa hoa thanh trà trắng muốt tàn để tái sinh mình cho mùa quả mọng là lúc loa kèn gọi về một miền thương nhớ chẳng thể nào quên.
Sáng tinh mơ, khi ánh bình minh vừa lấp ló qua tán lá, chị dâu đã đến đầu ngõ, giọng vang gọi tôi dậy: “Đã mua được loa kèn cho chị chưa mà còn ở đây thế?”. Câu hỏi như một tia nắng ấm thả vào cơn mưa đầu hạ, làm chính lòng người hỏi là chị bâng khuâng.
Bây giờ hoa thanh trà đã tàn. Loa kèn mới bắt đầu trắng ngần giữa lối ruộng, chẳng cần rực rỡ như phượng vĩ hay kiêu sa như hoàng mai, chỉ lặng lẽ nở, như một lời thì thầm dịu dàng. Ở Huế, người ta cảm nhận thời gian qua những loài hoa. Mỗi nụ hoa hé, mỗi cánh hoa tàn đều như một nhịp thở mới của tâm hồn, khơi dậy rung động thẳm sâu.
Chị dâu tôi vừa cắm hoa vừa kể, có những buổi trưa, chị thiếp đi trong giấc mơ về bữa cơm gia đình ngày xưa. Bàn ăn giản dị mà ấm áp, có đủ bố mẹ, bảy anh chị em quây quần. Tiếng cười như gió reo trên đồng. Ở đó những mảng tường vôi phai màu thời gian nổi bật bình hoa đứng lặng lẽ trên bàn ăn trong chiếc bình gốm Phước Tích nâu sòng đã cũ, chẳng cầu kỳ hoa văn khẽ ôm lấy những cành hoa loa kèn trắng muốt, nụ xanh e ấp xen lẫn vài bông nở rộ. Có ánh nắng chiều lọt qua cửa gỗ, rọi lên từng cánh hoa mỏng vẻ thuần khiết ngỡ làn sương sớm chưa tan trên đồng làng như đọng lại ký ức qua biết bao tháng bao năm.
Hương thơm mát thoảng nhẹ tưởng chừng vừa phà vào từ phía sông, thanh thoát len lỏi hòa cùng mùi cơm vừa nấu… làm ấm thêm tiếng cười của mấy anh chị em, làm đẹp cho khoảnh khắc sum họp.
Giờ đây, những ngày sum họp chỉ còn đủ người bên nhà chồng, còn gia đình chị người vào Nam, kẻ ra Bắc, người bôn ba nước ngoài mưu sinh. Chị bảo, ước mơ của chị chẳng nhiều nhặn gì, chỉ là một bữa cơm đủ mặt, đủ tình thân, đủ những câu chuyện rôm rả ngày thường.
Ngày xưa ấy, mùa này, chị dâu ngoài giờ lên trường dạy học thường kiếm thêm đồng ra đồng vào khi cùng mẹ chồng gánh loa kèn ra chợ bán. Mỗi ngày một phiên, trên đôi dép mòn lẹt xẹt, vai chị gánh những bó hoa trắng, hương thơm ngòn ngọt thoáng vào trong gió còn dài và rõ hơn những lời rao. Chị dâu đùa rằng hoa của chị là “những bông hoa biết gọi”, bởi thế mà gánh loa kèn của chị bao giờ cũng hết sớm nhất.
Hoa bán xong, còn một hai bó có khi chị đổi cho bác nông xóm bên lấy rổ dưa ngọt mát hay gói kẹo làm quà cho cháu, cho em. Những trưa ấy, mẹ chồng đem dưa gang muối chua hoặc nấu bát canh giải nhiệt thanh mát, vừa chan húp vừa kể chuyện chị dâu gánh hoa, dáng nhỏ nhắn mà kiên gan lạ. “Người uống nước sông Hương, cây tưới nước sông Hương, đều tỏa hương thơm cả,” chị dâu bỗng cho mình lãng mạn đôi phút giây tạm quên đi sự tằn tiện bởi đời sống chật vật thời gạo châu củi quế mà nói như một người xuất thân từ một đại gia đình đều theo nghề giáo.
Hơn hai mươi năm có lẻ về sau, chị dâu còn không ít lần đứng lặng trước sạp hàng nhỏ ở chợ Đông Ba, mắt dừng lại trên một bó loa kèn vừa chớm nụ mà nhớ gánh loa kèn chị gánh ngày xưa. Chị nhớ hồi nào chưa lấy chồng xa, mẹ chị mỗi lần ngắm loa kèn lại kể chuyện tình đầu với ba, giọng đều rưng rưng. Chị cúi xuống chọn một bó loa kèn, buộc lên chiếc xe đạp cũ, thong dong dạo chợ. Người qua đường thấy chị, ai cũng hỏi: “Bó loa kèn bao nhiêu?”. Hỏi để biết, hỏi vì hoa tươi quá, đẹp quá, chứ chẳng ai màng chuyện đắt rẻ. Khoảnh khắc ấy, bó hoa trên tay chị như đánh thức trong lòng bao người ký ức về thời mực tím, trong trẻo như thanh xuân đang là. Có người thấy hình ảnh ấy mà sực nhớ một bóng hình xưa lắc lơ ôm bó loa kèn to lấp ngực thẹn thùng, nụ hoa như nụ hôn đầu biếc xanh, bỏ quên đâu đó giữa chợ đời hối hả.
Bông loa kèn trắng tinh chị đem về cho tôi chưng trong phòng sách, giản dị mà tao nhã, như thú vui thầm lặng của người Huế với hoa. Chị rằng, em biết không có những mối tình ấp ủ từ một bó loa kèn ai tặng năm nào, mấy mươi năm sau vẫn là câu chuyện người ta vui hoài nhắc mãi chẳng cần phải quà vàng, quà bạc chi. Có lần, chị rủ tôi lội ruộng loa kèn chụp ảnh vào buổi chiều in như thời thiếu nữ mỉm môi khi cười để tạo dáng, chị thúc vào eo nhủ tôi lấy chồng đi kẻo như hoa em cũng có thì.
Tôi nào đâu đã hiểu cái thì ấy quý giá thế nào với đời người, đời hoa, tôi nâng nụ loa kèn xanh non, cười khúc khích: “Lỡ thì thì em ở với mẹ”. Nghe chị đọc những câu thơ vụng về tôi giấu trong trang đầu nhật ký khi lần đầu biết yêu: “Dáng hoa vấn vít in trên tường/ Ngày qua chẳng gặp hoa đã rơi/ Cánh hoa xao xác nơi hò hẹn/ Hương hoa đi tìm người thương rồi.”
Chị làm tôi cũng mơ ngôi nhà phố của mình về sau sẽ có một mảnh vườn trên sân thượng nhỏ xinh trồng hoa lòa xòa tràn lối đi, cánh tàn kế búp trắng nõn nà, cho tôi mãi sống những ngày sáng trong của tuổi trẻ. Chỉ nghĩ đến hoa dành dành thơm dịu, trà mi thanh tao, dạ hương nồng nàn mỗi tối cùng những khóm loa kèn nghiêng nghiêng nụ như dấu hỏi ngày mai tôi chợt nao nao. Khi lớn thêm, tôi biết làm duyên, thành thiếu nữ và có biết buồn vì sự dang dở, tôi cũng không quên mối tình thơ chị kể từ trưa nào, ai thầm thương đặt trước cửa những bông loa kèn biết gọi để thầm nói với mình nếu sáng trong trong tâm hồn thì chẳng có thì, chẳng có mùa.
Cuộc đời không bao giờ yên ả, luôn có đến và rời đi. Vợ chồng chị xin chuyển việc về lại quê chị làng hoa Tây Tựu, Hà Nội để lo phần hiếu vẹn tròn. Ngày ra bến xe, lọ loa kèn vừa cắm còn tươi bỏ đi không nỡ, hai vợ chồng chị lỉnh kỉnh bao thứ vẫn ôm theo như sợ phụ hương sắc hoa dẫu biết làng hoa mà thiếu chi hoa. Một người bạn học cũ tình cờ gặp chị, thấy bó hoa trên tay, bước lại gần, hỏi: “Loa kèn bó bao nhiêu, vẫn ở Huế chứ?” Câu hỏi như níu chân người lại. Chị đứng lặng, tay ôm bó loa kèn biết gọi, lòng nghe tình Huế đáp lời qua mỗi mùa hoa. Loa kèn bó một xuân xanh, chẳng đong đếm được bằng tiền.
Giờ mẹ chồng già yếu cần con cháu hơn, vợ chồng chị lo tròn bên ngoại, con cái đều đã lớn nên giờ trở về làng hẳn. Ngày hội nào chị cũng chọn chiếc áo dài thêu bông loa kèn trên tà, bước đi khẽ khàng như thuở vẫn còn gánh hoa ra chợ, sợ đóa kèn rơi nếu vội chân bước mau.
Nguyệt Biều vẫn xanh, sông Hương vẫn trôi, và loa kèn vẫn nở, trắng tinh khôi trên đồng và trong lòng. Có khi, chẳng một tiếng gọi nào nôn nao hơn tiếng gọi của một mùi hương đã bện chặt ký ức.
H.H.P
(TCSH57SDB/06-2025)
PHẠM THỊ CÚC Thầy dạy lớp Nhì Thầy dạy lớp Nhì tên Thanh. Người thầy roi roi, hơi thấp và nhỏ con. Bù lại, thầy rất nhanh nhẹn và vui vẻ, hoạt bát, nụ cười luôn nở trên môi.
VĨNH NGUYÊN Biết sở Ngoại thương có đến năm ông vua, tôi tặc lưỡi - chà, thời buổi này tiếng vua quan nghe có vẻ mai mỉa làm sao ấy? Nhưng lên được ngôi vua đâu phải đơn giản? Dẫu vua ác, vua hiền, vua tài ba hay bất lực, vẫn là vua một thời và khối kẻ mong ước được "một ngày tựa mạn thuyền rồng"...
TRẦN THỊ HƯỜNG (*) Hồi Ký Mùa thu năm 1922 tôi rời thị xã Quảng Ngãi hòa trong dòng học sinh của nhiều miền trong đất nước về học tại trường nữ sinh Đồng Khánh (Huế).
NGUYỄN XUÂN SANH Hồi ký Tôi và Huy Cận đều là học sinh Trường Quốc học Huế. Khác lớp nhau, nhưng cùng chung một ký túc xá. Hết sức thương nhau.
MAI VĂN HOAN (Trại sáng tác văn học Hương Vân)
NHẤT LÂM (Trại sáng tác văn học Hương Vân) “Trái bưởi kia vàng ngọt với ai” (Tố Hữu)
NGUYỄN THỊ CẨM THẠNH Hồi ký Đoàn nữ sinh trường Đồng Khánh Huế chúng tôi, đồng phục áo dài màu xanh biển, sắp hàng đôi, rời mái trường ngói đỏ, tường hồng, đi dọc theo hè đường, sang trường Việt Anh dự buổi tổng duyệt vở kịch Trưng Trắc Trưng Nhị của nhà thơ Thanh Tịnh.
L.T.S: Bửu Tiến, sinh năm 1916 ở Huế. Hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Ông là một trong những nghệ sĩ đầu tiên ở Huế tham gia kháng chiến sau cách mạng tháng Tám 1945.
Nếu ai đó nói, con đò là một trong những biểu tượng thi ca và văn hóa Huế, chắc rằng ít người sẽ dám phủ nhận điều đó. Nhắc đến Huế không thể không nói đến dòng Hương thơ mộng, nhưng chỉ là dòng sông lững lờ chảy qua miền đất thần kinh không thôi, e là đơn điệu lắm khi thiếu vắng sự tô điểm của những con đò.
NGUYỄN CƯƠNGKỷ niệm 36 năm ngày giải phóng Huế 26/3/1975 - 26/3/2011
NGUYỄN DUY HIỀNHồi ký
TRƯƠNG THỊ KHUÊ(Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân) Hồi ký
CHƠN HỮU Tản vănNhững giọt sương lấp lánh. Một chồi non mới nhú. Ồ! Mùa xuân đã về!
LTS: Ông Đặng Văn Đông - một cao niên gần 90 tuổi ở Huế, là người gửi nhiều bài dịch cho Sông Hương song chưa hợp với tiêu chí “nhìn ra văn học thế giới đương đại”. Vừa qua chúng tôi nhận được thư của ông cùng bài viết về một kỷ niệm đầy nhân ái trong gia đình.Sông Hương xin đăng, và kính chúc ông năm mới dồi dào sức khỏe!
PHẠM VĂN HỌC1. Chào xuân đẹp, có gì vui thế…!
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG Ghi chép
NGUYỄN KHOA BỘI LANChúng tôi đi theo anh Hoan, bí thư huyện ủy Triệu Hải, về kiểm tra vụ đông xuân. Anh có thói quen mỗi lần về đây thế nào cũng tranh thủ ghé Phường Sắn thăm bà mẹ Mít.
XUÂN HOÀNGHuy đang nói chuyện với mấy người bạn trẻ viết văn cùng quê thì Trường, anh bạn làm thơ trẻ người dân tộc ở phòng bên nghe tiếng, vui vẻ chạy sang.
HỒNG NHU(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế)Đại hội VHNT tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ 7 (4-1994) tại thành phố Huế đã nhất trí khẳng định về năm chính thức thành lập của Hội là năm 1950.
LÊ QUANG VỊNH (Trích hồi ký)…Tôi và Niệm thì đi học phổ thông, chị Mai tôi - theo ba tôi, con gái không cần học chữ nhiều - đi học nữ công gia chánh để chuẩn bị làm vợ làm mẹ sau này.