VƯƠNG HỒNG HOAN
(Đọc: "Con người thánh thiện" tập truyện ngắn của Hữu Phương)
Vài năm gần đây truyện ngắn của Hữu Phương lần lượt xuất hiện trên tuần báo Văn Nghệ. Tạp chí Văn nghệ Quân đội và Tạp chí sông Hương. "Con người thánh thiện" là tập truyện ngắn đầu tay tập hợp các truyện ngắn của anh viết trong nhiều năm.
Xuất hiện vào lúc truyện ngắn nước ta có nhiều diễn biến rất phong phú và đa dạng, đang có sự đổi mới về nội dung và hình thức nghệ thuật, truyện ngắn của Hữu Phương không dễ gì ngay từ đầu hấp dẫn được bạn đọc, có không ít bản thảo truyện ngắn của anh gửi đến các tòa soạn không trình diện được bạn đọc vì còn thiếu một chút gì đó. Tham gia cuộc thi truyện ngắn do Tuần báo Văn Nghệ tổ chức năm 1991, truyện ngắn "Ba người trên sân ga" của Hữu Phương đã vào đến chung kết, nhưng tiếc thay không vào sâu được trong giải. Tuy vậy đọc tập "Con người thánh thiện" người đọc không thể không dừng lại để nghĩ suy về những vấn đề mà tác giả gửi gắm một cách tâm huyết.
Số lớn truyện ngắn của Hữu Phương đi thẳng vào các vấn đề nổi cộm hiện nay trong xã hội chúng ta. Cuộc đấu tranh chống lại cái ác, điều ác trở nên bức thiết đối với từng con người và toàn xã hội. Văn chương viết về số phận con người là vấn đề muôn thuở, không có gì là cũ và không phải là mới, có chăng là cách phản ánh hiện thực cuộc sống, vấn đề biểu hiện của bản thân nhà văn có tài năng tâm huyết đến đâu mà thôi. Hữu Phương tỏ ra vững tay khi anh viết về cuộc sống đời thường với những lớp người mà anh quen thuộc, gần gũi. Con người trong tác phẩm của anh được rọi chiếu bằng thứ ánh sáng mạnh nên giúp người đọc hiểu được đâu là điểm sáng, đâu là bóng tối, đâu là quỷ dữ và đâu là thánh thiện ngay trong từng số phận của mỗi nhân vật. Ông giáo Khang, hiệu trưởng trường làng gần suốt cuộc đời đánh cắp tình yêu của người khác (con người thánh thiện) đã gây nên sự khinh bỉ trong người đọc. Ông Cảnh có những năm tháng sống hào hùng trong quân ngũ (Ba người trên sân ga) khi về với đời thường, ông như bị rối tung lên bởi các mối tình cảm ràng buộc tưởng chừng không gỡ nổi. Rồi ông giáo già dạy ở một trường đại học (Đêm hoa quỳnh nở), đến một anh chàng Toản (Đội trưởng xóm nghèo) đều được Hữu Phương thể hiện trong sự vận động của cuộc sống đời thường. Ngòi bút của anh không phải hướng đến sự chạy theo một cách viết về đời thường như một số cây bút ta thường gặp trong văn học chúng ta vài năm qua. Anh thử thách các nhân vật của mình trong nhiều tình huống, sự kiện, sự việc, để qua đó bộc lộ dần bản chất của họ. Ông giáo Khang con người đã bỏ bao công giăng bẫy cố tình chiếm được cô giáo Mận trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt nơi tuyến lửa nhưng sau này trong cuộc sống đời thường ông đã phản bội vợ mình để tìm đến một cô gái trẻ khác. Và với cách cư xử đầy thánh thiện của người vợ cũ, ông nhận thấy mình chỉ là một kẻ nhỏ nhen. Ở ông, cái thiện, cái ác luôn giằng xé thôi thúc lương tâm khiến ông không thể không thức tỉnh và cái ác đành phải cúi đầu trước cái thánh thiện của con người. Cũng viết về hướng này, ở "Đội trưởng xóm nghèo", Hữu Phương phê phán cái ác trong một con người bình thường. Tuy chỉ là một anh đội trưởng, Toản vẫn trở nên một kẻ láu lỉnh, tha hóa, sống bám trên lưng đồng loại. Toản "đánh dậm" tình yêu của cô giáo Hường, chạy theo những thú vui nhỏ mọn, tầm thường ở một làng quê nghèo nàn, lạc hậu. Suốt đời anh ta đi tìm sự hưởng lạc bằng cách chiếm đoạt, lừa đảo, nhưng hạnh phúc không bao giờ đến với Toản. Viết về cái ác, truyện ngắn của Hữu Phương là tiếng kêu khẩn thiết và xót xa rằng con người hãy "đừng ai đánh cắp tình yêu và lòng tốt" của người khác, luôn luôn "cao lớn hơn một tầm" bởi vì "cuộc đời còn vị tha, độ lượng, thơm thảo hơn nhiều" (Con người thánh thiện).
Tuy có đề cập đến cái ác, truyện của Hữu Phương viết chủ đạo vẫn hướng về sự thánh thiện của con người. Xuyên suốt các tuyến nhân vật trong cả bảy truyện anh muốn đem đến cho bạn đọc một ý tưởng sâu sắc: cuộc sống là đáng quý, rất đẹp, con người chân chính là con người biết tránh xa, biết chống lại điều ác hướng đến chân, thiện, mỹ. Hữu Phương thường khai thác những hoàn cảnh trái khoáy, éo le, trớ trêu vừa gây tức cười vừa tạo nên nỗi buồn man mác qua mỗi nhân vật. Lão Điền già yếu hom hem vẫn còn "hám của trời cho" nên đến mức u mê bỏ trốn khỏi vườn dưa đầy trái lúc lỉu để đi vào cái chết (Trăng sáng vườn dưa). Bà Cảnh rất thương yêu chồng và nay tuy tuổi đã già nên không còn đủ sức giữ ông nữa, thế nhưng bà đã ghen tức, bực bội không chịu chia sẻ tình cảm cho người đàn bà trẻ đẹp khác cũng là vợ của chồng bà (Ba người trên sân ga). Ông giáo già trong "Đêm hoa quỳnh nở" đã có được một mối tình đẹp, trong sáng và lãng mạn, hạnh phúc đến với ông ngát thơm như hương hoa nhưng thật mỏng manh. Hạnh phúc của ông như bông quỳnh trong đêm khuya. Ông đã "mặc cảm", "tự ti", tự đánh mất hạnh phúc của mình rồi sau đó lại nuối tiếc, khổ đau đi tìm lại những kỷ niệm xưa cũ. Ở chuyện "Chiến tranh chấm dứt từ lâu", hoàn cảnh của Phượng hết sức éo le, đầy đắng cay và chua xót, chiến tranh chấm dứt, nhưng nỗi đau của con người do nó gây ra không dễ gì quên được. Truyện rất giàu tính nhân bản. Những con người bình dị như Phương, mệ Chiêu, và cả cu Dinh nữa làm cho người đọc nhớ mãi.
Tìm về sự thánh thiện của con người, Hữu Phương đã thực sự thân thuộc các nhân vật của mình. Anh phân tích thể hiện khá tinh tế tâm lý nhân vật qua các cung bậc tình cảm, người đọc thấy được sự hành trình của con người từ bóng tối đến ánh sáng, từ quỷ dữ đến thánh thiện. Để tự hoàn thiện mình, hành trình đó thật vất vả, đầy gian nan khổ ải, có khi diễn ra kịch liệt ngay trong mỗi một người.
Đọc "Con người thánh thiện" người đọc cảm thấy tin yêu cuộc đời. Tuy vậy không phải không có bạn đọc tự hỏi: Liệu cuộc sống có diễn ra như Hữu Phương thể hiện không? Bởi lẽ, ở một vài nhân vật, sự thánh thiện được thể hiện một cách cao độ, tinh khiết, cao xa. Vấn đề ở đây là chừng mực, mức độ, nếu Hữu Phương biết kết hợp nhuần nhuyễn sự say mê và tỉnh táo trong quá trình sáng tạo nghệ thuật./.
V.H.H.
(TCSH54/03&4-1993)
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)