Tìm trong nỗi nhớ (1), một giọng nói dịu dàng, một ánh nhìn nhân hậu...

14:32 01/07/2009
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

Truyện do hai người kể: bảy chương lẻ (1,3,5,7,9,11,13) là lời của cái "tôi" hồi tưởng hay tưởng tượng - người kể ở ngôi thứ nhất nói về những sự kiện đã xảy ra hoặc có thể xảy ra; qua bảy chương chẵn (2,4,6,8,10,12,14), người kể ở ngôi thứ ba thuật lại những gì đang diễn tiến trong hiện tại. Hai mạch truyện, hai người dẫn, quá khứ, hiện tại, tương lai, thực và mộng đan xen, hoà quyện... thủ pháp tự sự này khiến cuốn tiểu thuyết không đơn điệu, song đáng chú ý là vẫn giữ được sự liên tục, và tính thống nhất. Trước hết, truyện được cấu trúc rất kỹ: lời (hoặc ý) kết thúc chương trước nối với lời (hoặc ý) mở đầu chương sau, tạo cảm giác liền mạch, không đứt đoạn, tương tự một bài thơ liên vận. Thí dụ chương 2 khép lại bằng ý nghĩ của Lan Chi, nữ nhân vật chính, tại một thành phố miền Nam nước Pháp "Mùa đông năm nay thật lạ. Trời lạnh đến thế rồi mà sao vẫn chưa có tuyết rơi?" thì chương 3 mở ra cũng với hình ảnh tuyết, nhưng là trong ký ức của "tôi", về một thời gian, không gian khác "Tuyết rơi nhiều, rất nhiều, mùa đông năm ấy ở Matxcơva"...

Tuy nhiên, sự bố trí bên ngoài - dù công phu khéo léo - chỉ là một yếu tố gắn bó, kết nối bề mặt. Điều chủ chốt, tạo nên tính thống nhất bên trong, chính là âm điệu, là cái nhìn nhất quán, bao trùm và xuyên suốt tác phẩm: một cách nhìn thông minh và đôn hậu, một giọng nói hiền hoà nhỏ nhẹ. Tính từ dịu dàng xuất hiện nhiều lần chắc không phải ngẫu nhiên. Tình yêu trong cảm nhận của nhân vật chính bao giờ cũng gắn với sự dịu dàng: chương 3 - hồi ức về mối tình đầu chớm nở - mở ra với những bông tuyết đầu mùa "tinh khiết và dịu dàng", khép lại khi Matxcơva vào xuân, tuyết đang tan, "trời rất trong, rất dịu". Ở chương 5, người kể truyện nhớ về buổi sáng tỉnh dậy sau đêm đầu tiên trao gửi cho người yêu sắp cưới - "một cảm giác dịu dàng tràn ngập người tôi". Rồi đường đời của họ rẽ thành hai ngả, và mười hai năm sau gặp lại, biết rằng không thể quên nhau, cũng biết rằng không thể (và không nên) đảo lộn những gì đã an bài, Lan Chi nhận ở Kiên chiếc hôn từ biệt, "một nụ hôn thật dịu dàng nhưng ngắn ngủi". Mối tình sau này với Trung, cuộc hôn nhân, gia đình nhỏ họ xây đắp... cũng thấm đượm điều ấy: vòng tay Trung ôm dịu dàng khi cô kể cho anh nghe về cô và Kiên, thành phố Verona huyền bí dịu dàng trong tuần trăng mật, sự gần gũi dịu dàng và âu yếm của chồng mà cô nhớ nhung. Còn đây là ấn tượng mọi người lưu giữ về nhân vật: trong mắt người châu Âu, cô là một phụ nữ Á đông dịu dàng và dễ thương, Kiên không thể quên cô chính là vì cô dịu dàng đằm thắm, Trung luôn đầu hàng khi vợ "dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi"...

Nhưng một giọng điệu dịu dàng nhỏ nhẹ triền miên cũng có nguy cơ trở thành phẳng lặng, đôi khi tẻ nhạt (chẳng hiểu có phải để tránh điều này hay không mà trong sáng tác, phê bình, tranh luận gần đây, giọng điệu khá phổ biến là đáo để, sắc sảo, nhiều khi dữ dội, sỗ sàng? tất nhiên, việc "đảo lộn thứ bực" trong ngôn ngữ, phong cách, là một trong những cố gắng đổi mới văn chương, ở ta cũng như ở châu Âu, có điều đừng tạo nên thành một lối mòn, một ước lệ mới). May thay, Tìm trong nỗi nhớ hiền hoà, mà lại rất có duyên, nhờ nụ cười thấp thoáng ở mỗi trang. Có thể thấy trong tác phẩm mọi cung bậc, mọi sắc thái hài hước: âu yếm - như khi nói về những đứa con của Lan Chi sáng sáng "truy tìm đồ thất lạc" trước khi chạy bộ đến trường, một trò mà chúng "rất khoái" v.v., dí dỏm - thí dụ cảnh Lan Chi và Thanh Hoa đơn độc "đánh quả" ở Nga "không có bồ là rất thiệt... người nào có bồ thật đúng như có cánh. Bàn là nồi hầm... cứ tự dung bay vèo vèo về nhà"... Sự giễu cợt có khi chua chát - ngay trang đầu đã cho thấy mấy cậu bạn vụng về của Lan Chi "mặt đỏ lựng lên ngang màu đỏ của bông hồng thêu trên quần lót", những chiếc quần đem sang thị trường Nga, đôi lúc xót xa - nhẫn nhục xếp hàng, chờ đợi, để rồi tẽn tò nghe cô bán hàng dõng dạc tuyên bố không bán nữa và "thấy mình thiểu não ra về, mặt mũi bơ phờ, nhân cách tơi tả". Một vài mũi nhọn châm biếm được sử dụng khá thích đáng, khi nhằm vào các nhà khoa học "dỏm" trong và ngoài nước, một số chức sắc quan liêu, cửa quyền, (hình như vẫn hơn hiền lành, tuy không thiếu thông minh? thôi, chẳng thà vậy còn khiến người đọc dễ chịu hơn là nhiều sự đanh đá mà ít chất trí tuệ!)

Theo người kể, Lan Chi viết cuốn tiểu thuyết tự truyện này để nhìn lại con đường của cô và bạn bè, lớp du học sinh ra đi vào những năm tám mươi thế kỷ trước, bây giờ vài người ở trong nước, "còn thì tung tán khắp mọi nơi, Nga, Pháp, Anh, Đức, Mỹ, Nhật... nơi nào cũng có". Gần đây, một vài tác giả sống ở nước ngoài đã thể hiện các cảnh đời của người Việt tại xứ người, có những truyện viết chân thực, và hay (thí dụ như truyện của Nguyễn Văn Thọ mà tôi có dịp đọc). Tìm trong nỗi nhớ cũng nói về cả mặt phải và mặt trái của cuộc sống tha hương, một cách tinh tế, chừng mực, không cường điệu, không gượng nhẹ. Những dấu ấn của lịch sử, những dư âm từ quá khứ vẫn chi phối mỗi thành viên trong cộng đồng xa xứ, kẻ có ý thức, người bất tự giác, kẻ không muốn gỡ ra, người cố hoá giải... Đôi khi một hai nét phác hoạ nhẹ tênh - thí dụ như "một thoáng im lặng" của bà nội, khi thằng cháu định hát bài "Hà Nội, niềm tin và hy vọng" để đáp ứng lời bà khuyến khích hát tiếng Việt, rồi sự khó xử của bố mẹ bé trước tình huống ấy "Trung và Lan Chi cười cười nhìn con trai, chưa biết nói sao" - mà tiềm ẩn bao khác biệt thuộc tâm tư ba thế hệ! Lại có những lúc, nỗi day dứt bên trong thốt ra thành lời, và một âm điệu trữ tình bâng khuâng bỗng cất lên, thay cho giọng đùa cợt hóm hỉnh thường trực. Đó là phút giây hồi ức trỗi dậy, nữ nhân vật cảm thấy "quả tim như thắt lại, vật vã: nó biết rằng tôi yêu Tr., yêu thực sự, vậy mà tại sao một góc sâu thẳm trong lòng tôi vẫn chẳng thể quên K.?" Đó là lúc sắp rời Hà Nội trở lại Paris, Lan Chi "bắt chợt mình ghen tị với dòng người hối hả ngược xuôi trên đường phố. Ghen với sự thanh thản của một tình yêu trọn vẹn không bị giằng xé làm đôi. Ghen với cái hạnh phúc bình yên khi nhà và quê hương là một".

Cách thể hiện các biến cố, các tâm trạng, tất nhiên đã phần nào bao hàm ý định lý giải nơi người kể. Một điều rất rõ là cảm giác ngỡ ngàng của nhân vật chính (cũng là người kể xưng tôi), cô đọng trong một từ trở đi trở lại, với tần số còn cao hơn dịu dàng, đó là từ "bất ngờ". Chương 1, thuật lại cảnh lên đường của các thanh niên "đầu đầy ắp ước mơ", đã báo trước "Cuộc đời luôn luôn có những biến động bất ngờ (...) Nhưng vào thời điểm đó (...) không ai trong chúng tôi có thể ngờ trước điều này". Chương 2 nhắc lại ý đó "Chỉ vì cuộc đời cứ thích đi theo những đường ngoắt ngoéo, thích rẽ ngoặt ở những khúc bất ngờ"... Việc Thanh Hoa lấy chồng khác hẳn với dự kiến và hy vọng của bạn bè, bởi "cuộc đời đã quyết định theo kiểu khác, bằng cách đưa vào một nhân tố mới". Chuyện hôn nhân của Trung và Lan Chi cũng vậy: tiếng bất ngờ xuất hiện dày đặc, đến ba lần chỉ trong hai dòng "Trung bước vào đời tôi bất ngờ như vậy. Với anh, tôi đi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác". Và ngay trang tiếp theo, "...tôi hơi bất ngờ khi nghe anh hỏi tôi đã ăn tối chưa (...) Bất ngờ với cả chính mình, tôi đồng ý ngay...". Cả trong những sự kiện nhỏ, hoặc tưởng như nhỏ, ngẫu nhiên cũng giữ vai trò quan trọng - công việc bán sách "đến với Lan Chi một cách hoàn toàn tình cờ ", cô quen Rita "một cách hoàn toàn tình cờ "... Đúng là trong cuộc sống của mỗi người, không ít điều do ngẫu nhiên quy định, và nói như nhà tiểu thuyết Pháp Honoré de Balzac "Ngẫu nhiên là nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất trên đời". Song, cũng theo Balzac, bên các ngẫu nhiên thuần tuý, có những ngẫu nhiên "là quy luật chưa được hiểu thấu", và nhà văn cần phá vỡ tính ngẫu nhiên bên ngoài của sự vật, để phát hiện tính quy luật. Người kể có cố gắng thực hiện điều đó, ở chỗ này chỗ khác. Trả lời Thanh Hoa vì sao mối tình đầu đắm say của cô lại tan vỡ, Lan Chi không trút mọi sự cho "cuộc đời trớ trêu" mà thành thực "Có lẽ vì tất cả. Vì Kiên, vì tao, vì hoàn cảnh." Sau này, người kể truyện để Kiên lý giải "hoàn cảnh" ấy với Lan Chi "Nếu như hơn chục năm trước mà tình hình ở trong nước đã được như bây giờ thì chắc anh chẳng phải đi Ba Lan đánh quả làm gì. Cả em nữa, có khi em cũng chẳng sang Pháp, đúng không? Cuộc đời chúng mình lẽ ra đã có thể khác hẳn rồi."

Thế nhưng, quá khứ là quá khứ, nói như Lan Chi, giờ đây "tất cả đã an bài". Và dù tâm hồn đôn hậu của cô không thôi day dứt, "mặc cảm có lỗi với Kiên", mặc cảm rằng bố mắc bệnh tim "do quá đau buồn" về việc cô lấy Trung và ở lại Pháp, mặc cảm mình "phần nào trở thành người lạ" với quê hương, nhưng chính nỗi đau ám ảnh ấy, những dày vò trăn trở ấy - chứ không phải sự bình thản, hoặc thoả mãn - mới thực sự khiến quê hương "mãi mãi là một chốn để thương để nhớ " trong lòng những đứa con xa xứ, bởi có tình yêu sâu xa nào lại không ít nhiều gắn với nỗi đau?

L.H.S
(179-180/01&02-04)

------------------
1. Lê Ngọc Mai, Tìm trong nỗi nhớ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,2003.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!