LISANDRO OTERO
Cách đây mấy tháng ở Thủ đô Buenos Aires (Argentina) một hội nghị các nhà văn quốc tế đã được tổ chức, để thảo luận về đề tài tiểu thuyết sẽ ra sao vào thế kỷ hai mươi mốt sắp sửa đến.
Tiểu thuyết châu Mỹ La tinh và văn học thế giới - Ảnh: internet
Tất cả chúng ta đều hiểu rằng vô tuyến truyền hình đang dành được khán giả và khi có người nghe nói đến tựa đề của một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, họ sẽ trả lời, tôi không đọc cuốn sách ấy nhưng tôi đã xem cuốn phim. Thế thì vào thế kỷ tới có còn ai đọc tiểu thuyết nữa không?
Năm mươi sáu nhà văn, phần lớn thuộc các nước châu Mỹ La Tinh đã tham dự hội nghị quan trọng này, trong số những nhà văn ấy có các khuôn mặt tên tuổi như Artuto Uslar Pietri thuộc Venezuela; José Emilio Pacheco ở Mehico; các nhà văn Argentina: Ernesto Sáboto, Abel Posse, Alfredo Roggiano và Abrerlado Castillo, các nhà văn Tây Ban Nha: Juan Luis Cebrián và Felix Grande; nhà văn Puerto Rico-Luis Rafael Sanchej; nhà văn Bella Jozef từ Braxin; nhà văn Nestor Taboada Teran từ Bolivia, nhà văn Armonia Sommers từ Uraguay.
Một nhà văn bậc thầy trong làng văn tiểu thuyết Mỹ La Tinh, Uslar-Pietri, đã phát biểu rằng kích thước vũ trụ của mỗi nhà văn cũng bằng từ vựng của nhà văn ấy bởi vì những khiếm khuyết của cảm giác đã trao quyền lực cho chữ nghĩa. Uslar đã phát triển một luận đề về tiểu thuyết như một thể loại văn chương. Lối văn tường thuật gồm mọi thứ: lịch sử, thực tế, kinh nghiệm, tưởng tượng, và cùng với những thể loại khác như thơ ca và văn chính luận. Nó trở thành chất sống và không chối bỏ được. Mỗi nhà văn khi bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết là đang tạo nên một thể loại mới, mà theo nhà văn ấy, là điều đảm bảo đời sống lâu dài cho tiểu thuyết.
Tôi xin trình bày ý kiến riêng của tôi tóm tắt như sau: câu hỏi đầu tiên phải tự đặt ra cho chúng ta là, đâu là giá trị của tiểu thuyết? Và như thế, với tác phẩm, với một mớ lộn xộn tình tiết, với trực giác và ảo vọng của mình, nhà văn ấy đang tìm kiếm cái gì? Umberti Eco, để cố gắng trả lời câu hỏi này, cho rằng đó là chuyện làm vui cho độc giả. Những người khác lại nhìn nhận rằng họ đang nỗ lực vươn đến một cái gì đó bất tử.
Có người cố gắng xây dựng một thế giới và đóng góp vào cái vốn trí thức của loài người. Cũng có người muốn tạo ra một kích thước khác hẳn với những chuyện hoang đường và thiết kế một vũ trụ hợp lý, thực như là chính hiện thực vậy. Lại có người cố gắng tạo ra một kích thước mới bằng chữ nghĩa, xác thật như thời gian và bền vững như ý muốn tồn tại.
Đặt ra ngoài những ý đồ của tác giả, chúng ta đang phải đối đầu với sự thách thức của hệ thống thông tin đại chúng, của các loại phim ảnh và chúng ta phải chấp nhận sự đương đầu ấy với một phẩm cách đường hoàng.
Thời đại minh họa đã dẫn đến cuộc cách mạng giáo dục. Sự ra đời của máy in, của loại giấy in rẻ tiền, sự phát triển của nền giáo dục bậc cao và sự phát triển của các trường đại học đã thực hiện một cuộc giải phóng từ gốc rễ các lực lượng đã ảnh hưởng đến các loại truyện ngắn đăng từng kỳ, cùng sự bành trướng và phong phú của tiểu thuyết.
Để xác định rằng khoa học kỹ thuật học đã được mở rộng, chúng ta đã chứng kiến điều mà Marshall Meluhan đã gọi là sự bành trướng của năng lực và tốc độ của cảm giác. Không một loại hình nào thay thế loại hình đến trước, khi nó xuất hiện. Điện ảnh không loại trừ sân khấu, cũng như vô tuyến truyền hình không phủ nhận điện ảnh, cũng như các máy video không lấn át được vô tuyến truyền hình. Nhạc kịch không thể thay thế Opera, cũng như nhiếp ảnh không thể đặt hội họa trước một sự bế tắc. Vô tuyến truyền thanh không loại bỏ được những cuộc diễn thuyết và những buổi hòa nhạc, và các loại báo chí cũng không dẹp được các nhà xuất bản. Mỗi sự đối đầu đòi hỏi việc cải thiện thể loại có trước đó, những thể loại ấy chấp nhận sự mâu thuẫn và được tổng kết bằng tình trạng hiệu lực của cả hai loại ấy.
Meluhan đã trích dẫn Lamartine và lời tiên đoán của ông vào năm 1830, rằng báo chí sẽ chấm hết nền văn hóa được phổ biến nhờ những cuốn sách. Khác xa lời tiên tri, tiểu thuyết đã bắt đầu một thời kỳ phát triển. Tương tự như thế, một điều gì đó sẽ xảy ra trong thời đại của chúng ta nếu như các nhà văn đương đầu với sự thách đố đó một cách thông minh.
Những loại ngôn ngữ mới sẽ quyết định bản chất của tiểu thuyết thế kỷ 21. Nghệ thuật luôn luôn là một sự tái tạo. Nó là một thứ nghi lễ tràn lan đưa đến sự hiểu biết toàn diện hơn về con người và môi trường chung quanh họ. Rõ ràng là Jhakespeane thích thú hơn trong việc kiếm sống bằng cách làm cho khán giả của ông tự thưởng thức lấy họ, cũng như Lope De Vaga trước thềm của thế kỷ Hoàng kim Tây Ban Nha, hay Balzac với những tác phẩm định kỳ của ông.
Những trò giải trí nhất thời không thể nào sánh được với phim ảnh mà cũng không thể tiếp tục phô bày những gì hiển nhiên. Cũng như phát minh về sự phân ly ánh sáng đã thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa ấn tượng, cũng như việc nghiên cứu hình học đã giúp Cezaune phá hủy nền hội họa kinh viện. Những ngôn ngữ mới đang biện minh cho những gì mà tiểu thuyết hiện nay có thể hoặc không thể làm được.
Chữ nghĩa phải phục vụ những gì không thể lường thấy được, khai quật những gì đã bị chôn vùi và mài dũa cho những gì chưa có hình dáng. Đó là cách duy nhất để tiểu thuyết có thể đương đầu nổi với cuộc tấn công của các loại hình nghệ thuật hình ảnh. Tiểu thuyết của thế kỷ 21 sẽ phải đương đầu với sự thách đố ấy bằng cách nói lên được những gì sau tấm gương mà không cần biết chính tấm gương ấy phản ánh điều gì.
L.H.V
(Theo báo Granma 8/88)
(SH34/12-88)
Trên hành trình vòng quanh nước Mỹ và ghi lại những bức ảnh cho cuốn sách mang tên “American Farmer” (tạm dịch: Nông dân Mỹ) của mình, Paul Mobley đã rất sốc khi biết rằng trong số những người làm việc trên các cánh đồng mà anh từng đi qua, có rất nhiều người đã trên 100 tuổi.
Mark Taimanov là trường hợp hiếm hoi trên thế giới khi cùng đạt tới đỉnh cao ở hai lĩnh vực là cờ vua và nhạc cổ điển.
TUỆ ĐAN
“Ngôn ngữ bị bão hòa và trở nên có sức sống thông qua thời gian”
(Jorge Luis Borges)
JEAN-PAUL SARTRE (Nhật Vương dịch)
Jean-Paul Sartre (1905 - 1980), nhà văn Pháp, là một trong số những gương mặt tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh, thường được vinh danh là một trong số các triết gia hàng đầu của nền triết học Pháp thế kỷ XX.
TUỆ ĐAN
Nguồn mạch của tác phẩm tuôn ra từ sự cô đơn của nó, từ đó nó bắt đầu và tìm kiếm một tác lực cho sự khởi đầu ấy.
(Maurice Blanchot)
YẾN THANH
Thực thể Việt là một cấu trúc văn hóa động, trong đó nhiều yếu tố bản sắc chỉ được hình thành thông qua giao lưu với quốc tế, hấp thụ từ tinh hoa văn hóa nhân loại để biến “cái bên ngoài” trở thành “cái bên trong”.
LE VIEUX SIMON
Hồi ký
Trong thời gian bị lưu đày ở đảo Réunion (1916 - 1945) hoàng tử Vĩnh San (tức cựu hoàng Duy Tân) đã có nhiều hoạt động văn hóa và chính trị.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Chiều ngày 13/10/2016, Hội đồng Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã chính thức công bố giải Nobel Văn chương thuộc về nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ người Mỹ Bob Dylan với thông cáo giải thưởng được trao vì những phát kiến của ông trong việc tìm kiếm những cách diễn đạt thi pháp mới lạ cho truyền thống âm nhạc Mỹ.
Hòn đảo Cuba bé nhỏ và nghèo nàn hiện là một trong những nơi sản xuất ra các vũ công trẻ xuất sắc nhất thế giới. Nhà hát Ballet Hoàng Gia và Ballet Quốc gia Anh, San Francisco Ballet và New York City ballet đều có những diễn viên múa chính người Cuba. Làm thế nào một quốc gia nghèo nàn bị cô lập với 11 triệu dân có thể làm được điều đó?
Chúng ta đều biết rằng các nhân vật nổi tiếng thế giới như Albert Einstein, Benjamin Franklin, Natalie Portman, Ellen DeGeneres, Gandhi, Paul McCartney, Charles Darwin và Betty White cùng chia sẻ một điểm chung với nhau - đó chính là họ đều là những người có chế độ ăn dựa trên thực vật. Và có bao giờ bạn có hỏi lý do vì sao không?
Sau nhiều thế kỷ, các bức tường từng bảo vệ các Hoàng đế Trung Quốc trong Tử Cấm Thành đã bắt đầu suy yếu, gạch bị long ra và bề mặt đã có nhiều vết nứt.
TAMARA MOTYLEVA
Nhờ Tạp chí Văn học Obozreniye đăng tải "Những tư tưởng không hợp thời" của Maxim Gorky, chúng ta đã có thể hiểu nội dung sự khác biệt giữa ông với Lênin và những người Bônsêvích trước và sau cách mạng tháng 10.
Cách đây 75 năm, ngày 7/11/1941, nhân kỷ niệm 24 năm Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã tổ chức một buổi diễu binh, bất chấp những khó khăn, phức tạp của thời chiến khi quân phátxít Ðức đang ở cửa ngõ Moskva.
TUỆ ĐAN
Thân xác hiện hữu để rồi đem lại sức nặng và hình dạng cho sự tồn tại của chúng ta.
O. P.
Judith Lorber, sinh năm 1931, là giáo sư hưu giảng các môn Xã hội học và Phụ nữ học tại Trung tâm Tốt nghiệp thuộc Đại học Thành phố New York và Học viện Brooklyn. Bà là nhà lí thuyết nền tảng của kiến thiết xã hội về giới tính và đóng một vai trò then chốt trong việc tạo dựng và chuyển hóa ngành giới tính học.
PHẠM HỮU THU
Trong gần một tháng được ở “xứ sở chuột túi”, tôi có dịp đi đó đi đây và tiếp xúc với nhiều người, chủ yếu là kiều bào ta ở vùng Cabramatta - nơi được mệnh danh là thủ phủ của người Việt ở Australia.
NGUYỄN THỊ TUYẾT
Từ những chuyến tàu cưỡng bức xuyên Đại Tây Dương, người da đen đặt chân lên đất Mỹ với một nhân vị mới: người nô lệ. Toni Morrison ý thức sâu sắc về những cướp đoạt ấy, toàn bộ tác phẩm của bà không chỉ là lịch sử của người da đen (hơn ba thế kỷ) với tất cả những vấn đề khởi đi từ hệ lụy của màu da, mà quan trọng hơn, là nỗ lực mở ra một phả hệ mới, phả hệ của lòng nhân; và trên nền tảng bảo bối là bản sắc văn hóa, lịch sử tổ tiên, mỗi cá nhân phải giải thoát nhân vị nô lệ trong chính bản thân mình.
Ngày 17 tháng Chín vừa qua, tại Trung Tâm Nghệ thuật và Nghiên cứu Bétonsalon, thuộc trường đại học Paris VII-Didérot, thuộc quận XIII, Paris đã tổ chức triển lãm và hội thảo bàn tròn về các nghệ sỹ đương đại viễn xứ với chủ đề “Anywhere But Here”, trong đó có vua Hàm Nghi của Việt Nam.
Nữ văn sĩ nổi tiếng Chilê, Isabel Allende (Isabên Agiênđê) trả lời phóng viên tạp chí Cuba International (1987) trong chuyến đi thăm Cuba của bà.
BỬU Ý
Nhìn học sinh ở Pháp, ta có cảm tưởng họ chơi và nghỉ nhiều hơn học.