Tiếng trống lại vang lên trong ngõ vắng

10:07 20/05/2008
Khi biết nhà bác Cẩm ở trong ngõ nhỏ bên đường Phạm Hồng Thái, đối diện với Tòa soạn Tạp chí “Sông Hương”, tôi vừa ngạc nhiên, vừa như có chút ân hận.

Con người ta không ở nơi này thì ở chỗ khác, nhưng một người nổi tiếng như bác Cẩm ở ngay cạnh nơi hàng ngày mình thường qua lại mà đến nay mới biết thì cũng đáng trách là ...quan liêu. Vì dù sao tôi cũng mang danh là một cán bộ lãnh đạo văn nghệ trong nhiều năm, nay lại chỉ mê đắm theo đuổi những ngôi sao Hàn Quốc, Đài Loan... mặt hoa da phấn trên ti-vi, trên những trang báo sặc sỡ màu sắc. Vậy là ngoài bệnh quan liêu, còn bệnh “chuộng ngoại” và xem thường vốn cổ dân tộc nữa! Trong khi những giáo sư, nghệ sĩ tên tuổi tận bên Tây như Trần Văn Khê, Tôn Thất Tiết lại rất coi trọng nghệ thuật đánh trống của bác Cẩm và biết bao khán giả ở Pháp, Thụy Sĩ, Mỹ, Hồng Kông đã náo nức mỗi khi đôi bàn tay tài hoa của bác vung lên trên mặt trống.
Phải! Bác Cẩm - nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Mạnh Cẩm, Huy chương vàng Hội diễn Nghệ thuật toàn quốc năm 1985, người đã 70 năm làm rộn ràng sàn diễn khắp các phương trời, nay tôi mới được thấy tận mắt, bắt tận tay. Không phải cái bắt tay xã giao. Bên chiếc ghế xa lông mà bác đang ngồi xem một vở tuồng cổ trên ti vi, gần như là tôi đã quỳ xuống, sờ nắn từng ngón, ngắm vuốt từng ngón tay của người nghệ sĩ. Bằng cử chỉ trân trọng mà thân tình ấy, tôi hy vọng có thể nắm bắt được điều kỳ diệu đã khiến loại nhạc cụ đơn giản nhất mà lại tạo ra được những âm thanh phong phú có sức cuốn hút khán giả nhất trên sân khấu, ít ra cũng biết đôi bàn tay qua bảy thập kỷ cầm dùi trống đã thành chai như thế nào. Tôi đã lầm. Bàn tay không một vết chai. Những ngón tay săn chắc mà lại mềm dẻo, tuy cổ tay đã lốm đốm “da mồi”.
- 84 tuổi rồi! Tay cầm dùi trống cốt ở cách điều khiển gân nơi các ngón tay...
- Bác có để chiếc trống nào ở nhà...
- Anh  xem làm chi! Tôi cất trong tủ rồi!
Nói vậy, nhưng biết tôi muốn được xem “tận mắt, tận tay” cái nhạc cụ đã gắn bó với suốt cuộc đời bác, bác Cẩm lại mở chiếc tủ đứng ở góc nhà. Chiếc trống được bọc cẩn thận trong túi giả da, loại trống có đường kính ba mươi phân, cao khoảng gang tay tiện dụng lúc mang đi biểu diễn nơi xa. Tang trống làm bằng thân cây mít rừng - một cây nguyên, khoét rỗng bên trong chứ không ghép nối. Việc căng mặt trống, lúc nào bác cũng làm với thợ để bảo đảm độ căng hai mặt đúng yêu cầu. Dùi trống to bằng cỡ ngón tay cái, làm bằng gỗ cây Nguyệt Quới  thường mọc ở các chùa, loại gỗ khó bị gãy và không bị xơ. Năm 1995, với chiếc trống này, trong chuyến đi ở Mỹ cùng với 10 nghệ sĩ ca nhạc truyền thống Huế do nhà thơ Võ Quê dẫn đầu, bác Cẩm đã khiến hàng trăm khán giả bên kia bờ Thái Bình Dương nô nức đứng lên vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Nay thì chỉ mình tôi nghe, trong ngõ hẽm. Tiếng trống trong và ngọt, biến hóa theo từng điệu hát làm vui căn nhà trống vắng. Bác Cẩm ở cùng con gái Khánh Vân - cũng là một nghệ sĩ ưu tú, nhưng vợ chồng cô đang đi làm và hai đứa con trai đang đi học. Thực ra, trong căn nhà còn một thính giả nữa - vị thính giả đặc biệt từng bị cuốn theo nhịp trống của bác từ hơn nửa thế kỷ trước. Ngày đó, mặt trận Huế vỡ, các rạp hát ở Kim Long, Vĩ Dạ, An Cựu...không còn khách, chàng trai đánh trống Mạnh Cẩm tản cư ra Đồng Hới; có một cô gái mê xem tuồng rồi mê tiếng trống của người con trai Huế... Cô gái Đồng Hới xinh đẹp ngày nào nay đã là  một bà lão 82 tuổi. Thua bác trai 2 tuổi, nhưng xem chừng “bác Cẩm gái” không dẻo dai bằng; đi ra đi vào một lúc, bác đã phải vào giường nằm nghỉ. Hẳn là bác vẫn lắng nghe tiếng trống điêu luyện của “ông lão” và tiếng lòng không thôi nhắc nhở những năm tháng gian truân đã qua. Hơn 50 năm qua rồi! Bao nhiêu là nhọc nhằn vất vả đã trĩu nặng trên đôi vai gầy mảnh ấy. Từ Quảng Bình, ra Nghệ An; khi bom Mỹ nổ rung trời thành Vinh, Đoàn Cải lương Hòa Bình hết đất diễn, vợ chồng bác cùng bé Khánh Vân 8 tuổi lếch thếch đi bộ tới tận Thanh Hóa mới có tàu hỏa ra Hà Nội. Đoàn Ca kịch Huế-Trị Thiên đã kịp thời “chấm chọn” bác. Bất chấp bom đạn Mỹ cày nát hầu khắp các nẻo đường, làng xóm ở miền Bắc, từ Hà Nội, Đoàn Ca kịch Huế-Trị Thiên đã có lần vào diễn cho đồng bào Quảng Bình xem. Khán giả mỗi người một nhành lá ngụy trang, phản lực Mỹ nhào đến, chỉ diễn viên rút xuống đường hào đào sẵn ngay bên sân khấu. Năm 1973, bác Cẩm và Khánh Vân cùng một số nghệ sĩ trong Đoàn còn vào tận chiến khu Thừa Thiên biểu diễn. Hơn hai mươi năm xa quê, từ miền núi cao A Lưới tưởng như nhìn thấy Huế trước mắt mình mà đành chịu... Mãi đến sau ngày Huế giải phóng, đúng vào sáng 1/5, một chiếc xe quân sự dừng bánh trước cửa rạp Hưng Đạo. Vai mang ba lô, mũ tai bèo, bác Cẩm nhìn thành phố quê hương và dòng Hương với đôi mắt nhòa lệ. Cuộc đời diễn viên “lang bạt”, nhiều bà con tưởng là bác đã chết và người anh trai khi gặp lại bác ngỡ ngàng không còn tin vào đôi mắt mình. Hai năm sau ngày giải phóng, vợ chồng bác mới được đoàn tụ tại chung cư 46 Chi Lăng và mười năm nay, cùng với vợ chồng Khánh Vân, bác mới thật sự có được mái nhà riêng của gia đình mình.
Đời người, ai có thể níu giữ được tuổi thanh xuân nhưng tiếng trống của bác Cẩm thì như trẻ mãi với thời gian; hơn thế, nghệ thuật đến độ điêu luyện, chỉ một vài ngón tay rung khẽ như “chơi”, đôi dùi trống trơn bóng đã khua dậy những âm thanh rộn ràng trong trẻo làm xao động lòng người. Tôi lại xin được sờ nắm những ngón tay của bác. Lối đánh trông như “chơi”, dùng gân ngón tay mà không “lên gân”, nên đôi bàn tay cầm dùi trống 70 năm mà không một vết chai.
- Trông bác đánh ngon lành như thế thì còn đi biểu diễn được.
- Đôi tay còn linh hoạt, nhưng sức xuống nhiều rồi, hai năm nay tôi không còn dám đi đâu nữa. Buổi trình diễn tại Hội trường Ba Đình năm1996, có lẽ là lần diễn quan trọng cuối cùng của đời tôi. Lần đó, Tỉnh cho xe đưa tôi ra sân bay đi Hà Nội biểu diễn chào mừng Đại hội Đảng lần thứ 8. Vừa biểu diễn xong, ra sân bay là kết hợp với anh chị em từ Huế ra đi biểu diễn ở Hồng Kông. Chuyến đó, về đến nhà là tôi phải vào bệnh viện ngay. Từ đó, xương sống lúc nào cũng nóng. Tôi đang phải uống thuốc bắc. Vừa rồi, chương trình VTV3 của Đài Truyền hình Trung Ương vào tận nhà, nể quá, tôi phải biểu diễn để họ quay, nhưng làm gấp gáp như thế, lại quay, thu âm tại nhà, tạp âm nhiều, tôi cho là chưa đạt.
- Nghe nói nhạc sĩ Tôn Thất Tiết và giáo sư Trần Văn Khê rất chú ý nghệ thuật đánh trống của bác...
- Ông Tôn Thất Tiết vẫn thường gửi thư cho tôi, lại còn giúp tiền để bồi bổ sức khỏe nữa...
Bác Cẩm đứng dậy lấy lá thư của nhạc sĩ Tôn Thất Tiết cho tôi xem, ra bếp rót chén thuốc bắc uống như để tăng sức rồi tiếp tục câu chuyện:
- Ông Trần Văn Khê nghe tôi đánh rất chăm chú rồi hỏi ý nghĩa của mỗi cung bậc tiếng trống trong vở diễn, như khi có biến cố thì đánh ngũ liên vào giữa mặt trống, khi có người đưa tin cấp báo quan tướng tử trận chẳng hạn thì đánh ở vị trí sát tang trống, phối hợp với tiếng kèn gợi không khí cho diễn viên thể hiện cảm xúc; còn gõ lắc cắc bên tang trống là thể hiện tiếng vó ngựa, như thế này là một con, cả đàn thì khác...
Bác Cẩm vừa nói vừa minh họa bằng tiếng trống và cả lời ca của diễn viên mỗi lúc một say sưa. Sinh trưởng trong một gia đình có nhiều gắn bó với nghệ thuật tuồng (anh trai của bác là ông Cửu Dưỡng, nguyên là học viên lớp đồng ấu ở Thanh Bình Thự; còn người chị là nghệ sĩ tuồng Bạch Trúc) nên từ nhỏ bác đã thuộc nhiều làn điệu và trong những năm hoạt động ở Đoàn ca kịch Huế-Trị Thiên, bác là một diễn viên ca kịch với các vai diễn để lại nhiều ấn tượng trong lòng khán giả, nhất là vai đồn trưởng trong vở “Con gà chân chì” nổi tiếng một thời. Chính là nhờ thành thạo những lối nói và các điệu hát nên tiếng trống của bác không chỉ phối hợp nhịp nhàng với các vai diễn mà còn tạo không khí đưa diễn viên “vào vai” nhanh chóng.
Không dám làm bác mệt hơn, tôi cầm xem chiếc trống và định bỏ vào túi cho bác, nhưng bác Cẩm bảo:
- Anh để đó tôi... Bây giờ thì cũng chỉ cất làm kỷ niệm...
Về cuối câu, bác nói nhỏ, giọng buồn buồn nghe đến nao lòng khiến tôi cứ muốn thốt kêu lên: “Không! Một đôi bàn như thế, một chiếc trống như thế không lẽ...” Lặng một lát, tôi nói với bác:
- Không đi biểu diễn được, nhưng các học trò chắc đang cần đến bác.
- Mấy năm trước, tôi có dạy ở Trường Nghệ thuật, nay đã có Quốc Ngữ đảm nhiệm. Nó học với tôi từ hơn mười năm trước, nay là tay trống chủ lực của Đoàn Nghệ thuật truyền thống Huế. Thỉnh thoảng nó vẫn sang tôi, ngày lễ, ngày Tết còn mang gói trà, chai rượu cho thầy... Nói chuyện học trò, tôi kể anh nghe, có một anh bạn giới thiệu một cậu đến học với tôi; bữa ra mắt, cậu ta mang quà cáp đến, nói năng rất là cung kính: “Cháu muốn được bác dạy cho ít nhiều để có thể xuống thuyền đi “sô” với chị em...” Tôi hỏi: ”Thế trước nay đã đánh trống gì rồi?” - “Dạ chưa...” Tôi đưa trống cho cậu ta đánh thử. Nhìn đôi bàn tay và nhất là nghĩ tới việc cậu ta chỉ muốn học gấp để chạy “sô”, tôi từ chối. “Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào...” Nhiều người cứ nghĩ nghề đánh trống thì có gì là khó khăn, ai học chẳng được. Anh biết không, tôi học đánh trống từ năm 13 tuổi, mỗi khi gặp lễ hội hay đi ngang ngôi chùa nào nghe tiếng trống, tiếng mõ cũng đều dừng bước lắng nghe, học hỏi; vậy mà đến nay vẫn chưa dám nói là hoàn hảo...
Bác Cẩm thong thả bỏ hai chiếc dùi trống vào một bao vải nhỏ, nhưng vẫn để nguyên chiếc trống trên mặt bàn xa lông. Hẳn là hồi ức tuổi thơ đang làm bác xao động. Từ chiếc “trống” tự tạo bằng lon sữa và bong bóng bò “ngày xưa” đến chiếc trống từng “mang đi đánh ở nước người” làm vẻ vang thêm cho nghệ thuật truyền thống Huế có biết bao nhiêu là kỷ niệm. Tôi cũng có cảm giác hình như bác muốn trì hoãn việc đóng lại chiếc “phẹc-mơ-tuya” nơi cái túi giả da đựng trống để rồi cất biệt nó sau cánh tủ khép chặt. Từ chiếc giường “bác Cẩm gái” nằm, chợt có tiếng vọng sang:
- Ông đã cắm nồi cơm chưa? Trưa rồi...
- Ờ...được rồi! Bà khỏi lo.
Như người sực tỉnh khỏi cơn mê, bác Cẩm đáp nhanh vậy rồi đứng dậy đi xuống bếp. Đã đành, nghệ sĩ cũng là con người, phải lo ăn lo uống, về già vẫn lo tìm công kia việc nọ đỡ đần con cháu được chút nào hay chút ấy, mặc dù con cháu chỉ muốn các cụ được nghỉ ngơi, nhưng nhìn theo thân hình gầy gò với cái lưng đã hơi còng và mái tóc bạc của bác Cẩm lui cui đi lo việc đong gạo nấu cơm, tôi cứ tiếc cho đôi bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ ấy. Không thể “lên lớp” được thường xuyên, nhưng bác vẫn có thể giúp ích nhiều cho việc đào tạo thế hệ tiếp nối. Không chỉ là những ngón nghề quý giá cần được truyền lại, mà niềm đam mê nghệ thuật không vì danh lợi của bác cũng là bài học rất đáng được lớp trẻ kế thừa. Với bốn đơn vị tại địa phương (hai Trường Nghệ thuật, hai Đoàn ca múa) có những học sinh, những nghệ sĩ trẻ đang theo đuổi bộ môn nghệ thuật truyền thống, nếu biết khai thác thì tiếng trống của bác Cẩm thiếu gì dịp được “giải thoát” khỏi ngăn tủ kia và cái ngõ hẽm không tên này. Ngay cả Quốc Ngữ, tay trống hạng nhất trong các đêm diễn ở Huế hiện nay cũng đang rất muốn được học thêm với bác, tuy anh  đã có Đức Tiễn tôn làm “thầy”. “Còn lâu em mới đánh được như bác Cẩm!” Quốc Ngữ đã thành thực nói với tôi như thế, khi nghe tôi bảo có người cho rằng ở Huế bây giờ đã có lớp trẻ thay thế được bác Cẩm!
Chia tay với bác Cẩm, tôi cứ thầm mong chiếc trống đang lặng lẽ nằm kia vẫn sẽ có dịp được cất tiếng với đôi tay tài hoa từng được nhiều thế hệ diễn viên phong tặng là “đôi bàn tay vàng”, dù đã 70 năm trong nghề vẫn như không biết đến sự già nua.
Chợt nghĩ: Không biết đã có cuộn “băng” nào ghi lại kỹ càng những “ngón nghề” của đôi bàn tay ấy để truyền lại cho hậu thế? Không, phải ghi lại bằng đĩa “CD”, để gìn giữ thứ tài sản quý hơn vàng ấy không bị ẩm mốc, phai nhòa theo thời gian. Trong số tiền tỷ mà Nhà nước cấp cho Sở Văn hóa Thông tin hàng năm, hẳn là không khó trích ra một khoản nhỏ để thực hiện việc đó?
                                                           Trường An-Huế, tháng 4/2001

NGUYỄN  KhẮC Phê
(nguồn: TCSH số 147 - 05 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.