Thuyết “nhân mãn” - hai thế kỷ nhìn lại

14:36 03/11/2014

LÊ ĐỖ HUY 

Cựu học trò thời bao cấp hẳn đều sốc bởi cách trình bày của Malthus (1766 - 1834): dân số quả đất tăng theo cấp số nhân, trong khi sản lượng thực phẩm cung cấp tăng theo cấp số cộng…

Ảnh: internet

Malthus đề cập các cách hạn chế mức tăng dân số theo hướng can thiệp cứng (positive checks): nạn đói, bệnh dịch, chiến tranh, và các giải pháp ngăn ngừa (preventive checks): kết hôn muộn, tránh thai kể cả (nạo thai), mãi dâm, cách sống độc thân… Quan điểm có vẻ thực dụng, và không ngại bạo lực, khiến ông bị một số nhà tư tưởng đương thời chỉ trích. Nhưng công trình “đầu tay” này của Malthus phân tích về dân số (1798) tạo một sốc nhận thức thời đó, khi quan niệm chung là: dân số càng tăng thì kinh tế càng phát triển.

Malthus sai?

Malthus cũng bị các tiền bối của hệ tư tưởng và học giả thời Xô viết phê phán dữ dội. Những ai sinh khoảng thập kỷ 60 (6X) được học sinh vật dưới ánh sáng của các “học giả” tù mù như Mít su rin, Lư xen cô, tới một điểm sáng hơn, khi học thuyết Darwin đã được dạy (tuy một thời vẫn song hành kỳ lạ với bài học thực nghiệm tậm tịt của các ngài Mit và Lư!), thì thấy Darwin vẫn bị Lư xen cô “phang” trên báo Liên Xô, vì Darwin đã đôi lần xác nhận rằng ông chịu ảnh hưởng của Malthus khi xây dựng thuyết về nguồn gốc các loài (xác lập nhờ chọn lọc tự nhiên)…

Bóng ma “nạn nhân mãn” ám ảnh ghê gớm không ít 6X khi lo chuyện hôn nhân, nhưng không dễ dàng tìm hiểu Malthus sâu hơn. Từ điển bách khoa Liên Xô 1986 viết về Malthus: “… nhà kinh tế chủ trương một luận thuyết phản khoa học, khẳng định rằng thất nghiệp và tình cảnh khốn khổ của người lao động dưới CNTB là kết quả của sự dư thừa tuyệt đối nhân khẩu, và do tác động của quy luật phân phối dân cư tự phát”.

Sau hai thế kỷ, Malthus có lúc bị phê phán dữ dội, nhất là sau khi xuất hiện khái niệm “cách mạng xanh”. Malthus đã không đoán trước được rằng thành tựu công nghệ cho phép tăng đột biến sản lượng lương thực, thực phẩm. Cứ cho là Malthus đã dự báo được là nhân khẩu của thế giới tăng từ 1 tỉ (thời của ông) lên tới hơn 6 tỉ người, thì ứng dụng công nghệ hiện đại nay đã giúp tăng sản lượng thực phẩm lên 6 lần, một số học giả phương Tây “chê” Malthus. Chống lại họ, đã hình thành trường phái Malthus mới (Neo - Malthusian), manh nha từ sau khi trái đất chịu thảm họa bom nguyên tử đầu tiên trong Thế chiến II.

Đầu thiên niên kỷ, nghiên cứu của Worldwatch Institute(1) cho hay ở hơn 30 nước trên quả đất, mức tăng dân số xấp xỉ số “0”: Nhật, Pháp, Anh, Tây Ban Nha… Tổng dân số của ba chục nước này là khoảng 2 tỉ người. Vậy là với 1/3 nhân loại, thuyết Malthus không đúng?

Malthus đúng 2/3?

Tuy nhiên, Worldwatch Institute viết tiếp, ở các nước thuộc 2/3 nhân loại còn lại, mỗi năm tăng thêm 80 triệu người (gần bằng dân số Việt Nam). Các số liệu của Liên Hiệp quốc cho biết, 50 năm tới, dân số trái đất sẽ đông thêm tới 3,3 tỉ người (!). Trong khi đó, sản lượng đánh bắt cá tính theo đầu người của thế giới giảm liên tục kể từ 1968, sản lượng ngũ cốc theo đầu người nhiều năm đang giảm sút, bất chấp năng suất (nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại) tăng. Khủng khiếp hơn cả, là dự báo tới năm 2050, (khi thế giới đã có tới hơn 10 tỉ người cư trú), “trữ lượng nước ngọt tính theo đầu người chỉ bằng ¼ so với năm 1950”.

Trong khoảng 30 nước mà Malthus “không đúng”, có nhiều nước thuộc Liên Xô cũ. Hẳn 6X ở đó cũng bị ám ảnh bởi “nạn nhân mãn”, nhưng tới mức không muốn sinh nở, trước khi chắc chắn được rằng con cái ra đời sẽ được đảm bảo các chuẩn mực về chất lượng cuộc sống chí ít không tệ hơn cha mẹ chúng sinh ra ở đất nước Xô viết.

Ở không gian Xô viết cũ, xuất hiện những bài viết dịu hơn về Malthus, thậm chí gần như đề cao (bài viết S quay li ca ngài Malthus kh kính(2) trên tạp chí Vesnik, No 9, 2004, của Viện hàn lâm khoa học Nga).

Nơi Malthus không sai…

Các nguồn khác cho hay: hiện mỗi đêm có khoảng 1 tỉ người đi ngủ mà bụng trống rỗng (biểu hiện của nạn đói mà Malthus đã cảnh báo); mỗi ngày có tới hàng trăm ngàn người chết đói(3).

“Thảm họa Malthus” đang trở thành hiện thực. Nguồn: 1001.ru


Samuel Popkin, đọc hàng trăm công trình để viết cuốn Người nông dân điu độ: Kinh tế chính tr trong xã hi nông thôn Vit Nam/The Rational Peasant: The Political Economy of Rural Society in Vietnam). Sách như bức tranh toàn cảnh về phương thức sản xuất Á tế Á (được các thày cô của 6X giải thích nôm na: con trâu đi trước, cái cày theo sau) ở nơi “đất chật người đông”, tài nguyên và học vấn và năng suất lao động đều hạn chế, kiểu đồng bằng Bắc bộ tới giữa thế kỷ XX.

Có thể tham khảo Báo cáo du chân sinh thái theo quc gia phát hành 2012 (“National Footprint Accounts 2011” edition 1.0, May 7 2012), về năng lực sinh thái (biocapacity). Trong nhóm các nước thứ ba đông dân, Trung Quốc (dân số 1358,8 triệu), tài nguyên thiên nhiên quốc gia chỉ đủ nuôi 452, 2 triệu dân; Nigeria, tương ứng là (150,7 triệu) - 78,2 triệu người; Tanzania (42,3) - 19,5; Việt Nam (dân số 86,0 triệu) tài nguyên chỉ đủ cho 36.0 triệu người…

Điếc, không sợ “bom” dân số?

Peter Ogunjuyigbe là một nhà nhân khẩu học ở Nigeria, nơi mà các bà mẹ (giống như ở Việt Nam thời trước, theo lưu trữ của Pháp) thường tự hào là mình có nhiều con, cho dù “nheo nhóc”. Ogunjuyigbe, trên báo The New York Times tháng 4/2012, cho rằng:

“Dân số là then chốt (key). Nếu ta không quan tâm đến dân số, thì trường học không thể kham nổi, bệnh viện không kham nổi, rồi nơi ăn chốn ở cũng khan hiếm, và ta không có bất cứ thứ gì để kiến tạo một nền kinh tế phát triển”.

Vậy, quá tải dân số dẫn đến quá tải trong khâu cung cho nhu cầu về học tập, an sinh của cộng đồng. Trong công trình đầu, 1798, Malthus cho rằng các cố gắng cải thiện cuộc sống (về lượng) cho tầng lớp dưới như tăng thu nhập cho họ, hay tăng sản lượng nông nghiệp rồi sẽ hỏng ăn, vì tầng lớp dưới nhờ thế mà sẽ đẻ nhiều thêm…

Nhưng công trình phân tích về sau của ông (năm 1803, sau khi đã đi thăm các nước châu Âu để tìm thêm thực tiễn cho dự báo về “bùng nổ dân số” của mình), Malthus đã đến những bến bờ nhân văn hơn. Ông cho rằng cần phải nâng mức sống (về chất) của giai tầng thấp hơn, lên tới mức của tầng lớp trung gian nhờ hệ thống tuyển cử thống nhất toàn quốc; nhờ tài trợ của Nhà nước cho giáo dục; nhờ thiết lập thị trường tự do sức lao động… Ông cho rằng (nhờ văn hóa, giáo dục), sẽ tạo cho tầng lớp dưới khả năng cảm nhận chất lượng sống trung lưu, khiến lớp trẻ nỗ lực hướng tới các tiêu chuẩn cao hơn của cuộc sống, trước khi lập gia đình và sinh con đẻ cái. Nguyện vọng này của Malthus hẳn đã thể hiện như một diện mạo riêng của các nước phát triển, và cả của các nước Đông Âu đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế: lập gia đình muộn, sinh ít con, các chế độ bảo hiểm xã hội có hiệu lực, và chất lượng đảm bảo sức khỏe cộng đồng cao… Cùng với nỗi lo: dòng di trú bất hợp pháp từ các châu lục “đen” và “vàng”, ẩn hiện nạn buôn nô lệ đời mới (trafficking).

Các nguồn cho hay sinh thời Malthus là một người lạc quan, chủ gia đình hạnh phúc, và không hề “diều hâu” về chính trị. Vậy ông, nhất là về sau, hẳn đã muốn dự báo u ám của mình (thảm họa Malthus/Malthusian catastrophe) sẽ được người đời tính đến để nó không thành hiện thực. Hơn hai thế kỷ đã qua, các biện pháp chấn hưng giáo dục, cải cách thể chế, tạo cạnh tranh lành mạnh về năng lực công tác… của Malthus vẫn thời sự, nếu muốn “quan tâm đến dân số”, theo Peter Ogunjuyigbe đề cập ở trên.

Mỗi năm tiếp cận không gian bệnh viện hay trường học, lại thấy chúng ngày một quá tải hơn, “hàm số” của tiêu cực ngày càng nhiều biến số hơn, “phi tuyến” hơn. Các cải cách giáo dục và y tế sẽ khó thành, nếu không kìm được mức tăng dân số.

Đồ thị phát triển dân số toàn cầu. Màu xanh: dân số các nước đang phát triển. Màu vàng: dân số các nước phát triển. (Nguồn: truyền thông phương Tây).


Malthus “tái thế”

Ở thế kỷ 19, chưa nhận thấy vai trò tích cực của công nghệ đối với tăng dân số, Malthus càng không thể dự báo được mặt tiêu cực của nó. Ở các đô thị, nơi nhu cầu thực phẩm vượt lên “cung”, hình thành các “chân hàng ma”: công nghệ cao bị dùng để tạo nên thực phẩm giả, nhiều thức ăn “trẻ mãi không già”.

Nhưng trên các tạp chí về môi trường sinh thái, tên tuổi của “thánh” Malthus gần đây ngày một được nhắc tới nhiều hơn.

Dưới đầu đề “Học thuyết Malthus vô địch muôn năm”, Tạp chí Eco Alternative của Nga năm 2012(4) cho rằng trong suốt thế kỷ 20, người ta đã cố tình làm ngược lại những cảnh báo của Malthus. Eco Alternative cho rằng đề cao những khẩu hiệu đạo đức giả để che đậy những mục tiêu “xôi thịt”, không chịu kiểm soát ngặt nghèo mức tăng dân số toàn cầu, nhiều khi chỉ do các ý tưởng nhân đạo hoặc tôn giáo, đang làm nổi cộm lên xu thế lao vào “lò mổ thế giới” (мировая бойня) để giành giật tài nguyên, khoáng sản, nước, và lương thực hôm nay.

Hai thế kỷ sau Malthus, trên nền thuyết “nhân mãn”, cũng chính các nhà cách mạng xanh, cùng giới học giả đưa ra các khái niệm như, “con nợ sinh thái” (ecological debt)4 để chỉ các nước có số dân vượt quá khả năng mà các nguồn tài nguyên nước mình có thể “nuôi” được, mà đứng đầu bảng là Trung Quốc - nước đông dân nhất thế giới. Trung Quốc đồng thời còn là nước có tham vọng đạt tăng trưởng cao bằng mọi giá, trong thời gian dài để đạt mộng siêu cường số 1, làm phát sinh khái niệm “thủ phạm chính làm bẩn hành tinh” (главный загрязнитель планеты), nguồn gây bất ổn (China’s growth at any cost the cause of instability) về xã hội và môi trường…

Cơn khát nguyên - nhiên liệu, bệnh vĩ cuồng, và cả nguy cơ “can thiệp cứng” (theo cách gọi của Malthus) của láng giềng Phương Bắc đang trực tiếp đe dọa an ninh, chủ quyền, và phát triển kinh tế của Việt Nam.

Đang tái hiện kỷ nguyên Malthus (dư thừa nhân khẩu dẫn đến nạn đói và chiến tranh) khiến Malthus đã tìm các dạng can thiệp khác để điều tiết nhân khẩu. Trong hình bóng dàn khoan Trung Quốc, và dã tâm diệt tàu đánh cá Việt Nam, đang dần hiện rõ cuộc chiến tranh kiểu Trung cổ, tranh cướp các tài nguyên thiết yếu cho cuộc sống của nước khác, đồng thời cả tiêu diệt dân lành của nước đó.

L.Đ.H  
(SDB14/09-14)

----------------------
1. 200 Years Since Malthus and We Still Haven’t Proved Him  Wrong .
2. ВОЗВРАЩЕНИЕ ПРЕПОДОБНОГО ТОМАСА МАЛЬТУСА.
3. Reinventing Malthus for the 21st Century. Celebrating the Bicentennial of Malthus’ Original Population Essay.
4. http://bioalternative.wordpress.com/2012/08/31/1939/ 







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LỖ TẤN

    Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy. 

  • THUẬN AN

    (Đọc cuốn ký sự đường xa “18 tuổi và chuyến phượt solo đầu đời trên đất Mỹ” của Phạm Nguyễn Linh Đan, Nxb. Hội Nhà văn 2018).

  • (Để tưởng niệm thi sĩ Mary Oliver, vừa mất ngày 17 tháng 1, 2019, tại Florida, 83 tuổi)  

    ĐỨC TÙNG

  • CHU HUY SƠN

    Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.

  • Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn (còn sống) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best- seller (số liệu tính đến tháng 6/ 2015). Ngày 22/12/2016, trong danh sách 200 tác giả có ảnh hưởng lớn nhất thế giới do công ty Richtopia đề xướng, Paulo Coelho được kể tên ở vị trí thứ 2.

  • WILLIAM D. ADAMS    

    LGT: William D. Adams hiện là học giả cao cấp tại quỹ hỗ trợ nhân văn và khoa học nghệ thuật lừng danh Andrew W. Mellon của Hoa Kỳ. Từ 2014 - 2017, ông được Tổng thống Obama (lúc đương nhiệm) bổ nhiệm giữ chức vụ chủ tịch Tổ chức Quốc gia về Nhân văn (NEH) - cơ quan độc lập của chính phủ tài trợ các dự án văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục.

  • PABLO NERUDA    

    LGT: Pablo Neruda, nhà thơ Mỹ Latinh nổi tiếng thế giới, sinh năm 1904 tại Parral, Chile. Năm 1920 ông đến Santiago để học tập và công bố bài thơ đầu tiên “La canción de la fiesta” (1921), rồi được biết đến rộng rãi qua tập thơ “Crepusculario” (1923).

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO  

    Tôi xin được dùng tên một bài thơ viết tại Paris của mình làm tựa đề cho bài viết này. Đó là những cảm xúc thăng hoa, những phút giây hạnh phúc và cũng là những kỷ niệm khó quên cùng bạn thơ của 24 quốc gia tham dự cuộc thi Slam thơ Quốc tế 2018 tại Paris tháng 5/2018 vừa qua.

  • PHẠM HỮU THU  

    Nhân loại kính nể không chỉ vì đất nước Nhật Bản bình tĩnh ứng phó thiên tai mà còn gây thiện cảm qua hành vi ứng xử của họ. 

  • NGUYỄN THANH VIỆT  

    Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).

  • (T. Segers đặt câu hỏi, Hans Robert Jauss trả lời, Timothy Bahti dịch [sang tiếng Anh], Tạp chí New Literary History, Vol. 11, No. 1, Johns Hopkins University Press, 1979).

  • HENRY SLESAR

    Nhà văn nổi tiếng Henry Slesar (1927 - 2002) viết tiểu thuyết, kịch bản, trinh thám, khoa học viễn tưởng đặc sắc về thủ pháp hài hước, kết cục trái chiều. 

  • PHẠM ĐĂNG  

    Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
    Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).

  • Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.

  • HENRY JAMES   

    Henry James: Nhà văn Mỹ (1843 NewYork - 1916 Luân Đôn), viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học, nghệ thuật Pháp. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009). Chủ đề: Ý thức, tâm lý; mơ mộng, tình cảm; vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trước khi biết lòng tử tế là gì
    Bạn phải mất đi nhiều thứ

  • NGUYỄN DƯ

    Đọc Thơ Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương Hàn (687 - 726):
    Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
    Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi.

  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Tôi và nhà văn Hà Phạm Phú nhận lời mời của Hội Nhà văn Việt Nam đi dự Hội thảo văn học quốc tế Trung Quốc và các nước lưu vực sông Mê Kông gồm: Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam được tổ chức từ ngày 21 đến 25 tháng 5 năm 2017 tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, khu tự trị dân tộc Choang Trung Quốc.

  • W.S. PEIRIS

    W.S.Peiris sinh 1932; đạt giải nhì truyện ngắn tiếng Anh trong cuộc thi Văn học quốc gia Tích Lan năm 2008. Hiện ông sống tại Kiribathgoda, Sri Lanka.