Thuốc và thầy thuốc chữa rắn cắn bản Lúng

09:39 23/04/2008
Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.

Bản Lúng là một địa phương heo hút tận miền rẻo cao Như Xuân, Thanh Hoá, trước ngày chưa có ông An nổi tiếng chữa rắn độc cắn, người ngoài bản, chưa mấy ai nghe tên. Sau 40 năm quân ngũ, với quân hàm đại tá, về hưu trí ở địa phương, với nghề bắt rắn, ông An nổi tiếng là thầy thuốc nam chữa rắn độc cắn. Bằng những bài thuốc gia truyền sưu tập từ nhiều miền Tổ quốc và thêm nghiên cứu thực nghiệm, thầy An đã cứu sống 30 người bị rắn độc cắn, trong đó có anh tôi. Có nhiều người tím tái, thoi thóp, thầy còn cứu được.
Đầu xuân Tân Ty , tôi có cuộc phóng vấn ngắn với thầy:
- Xin thầy vui lòng cho biết phác đồ điều trị rắn độc cắn?
- Khi bị rắn độc cắn, người bị nạn và người xung quanh phải bình tĩnh, tìm cách giải độc càng nhanh, càng tốt bằng phối hợp sau: Ga rô để ngăn chặn không cho nọc độc rắn lan toả. Lấy tóc rối, nhúng vào rượu hội, rửa vết cắn. Nặn cho máu tống nọc độc ra khỏi vết cắn hoặc dùng cục nọc để hút độc. Chuyển bệnh nhân đến viện để bác sĩ xử lý tiếp bằng huyết thanh chống nọc độc rắn hoặc cho bệnh nhân uống các bài thuốc nam gia truyền như một trong các bài sau:
Bài 1: Lá bồ cu vẽ tươi 40g, giã nhỏ, pha ít nước, vắt lấy nước cốt, mài hùng hoàng uống, bã đắp lên vết cắn. Bài 2: Dùng 100-150 gam lá tươi cây lưỡi rắn, một điếu thuốc lào, hai thứ giã nát, bỏ một bát nước, đun sôi để nguội, vắt nước uống, bã đắp lên vết cắn. Ngày đầu uống 2 liều, mỗi liều cách nhau 2 giờ. Ngày thứ hai và ba uống tiếp mỗi ngày 2 liều, mỗi buổi một liều. Bài này dùng cho cả phụ nữ có mang mà không độc hại. Cây lưỡi rắn có thể dùng phối hợp như sau: cây lưỡi rắn 50g, lá phèn đen 30g, nghể răm 20g, lá găng 20g, rễ cây cúc áo 20g, các vị này sao vàng hạ thổ, cho 3 bát nước sắc lấy 1, chia bốn lần uống trong ngày. Dùng liên tiếp 4 thang là khỏi hẳn. Bài 3: Một cục thuốc lào bằng đốt ngón tay trỏ, nhai nuốt nước, lấy bã đắp lên vết cắn.
Nguồn dược liệu trị rắn độc cắn thường sẵn ở quanh ta. Có khi là cây cỏ như cây cóc mần, cây thuốc hút, rau dệu... có khi là con vật như rệp hoặc bộ phận của con vật như máu rùa, mật lợn, mật rắn hổ, xương hổ tán thành bột... có khi là khoáng vật như hùng hoàng...
Hùng hoàng là chất kỵ rắn, giải nọc độc rắn. Người xưa đã biết chế thuốc bắt rắn từ hùng hoàng, tỏi, củ nén, nước điếu... Khi bị rắn độc cắn người bắt rắn bình tĩnh ga rô, nặn máu độc, lấy dăm viên thuốc mang theo tiêu với nước, dăm viên nữa nhằn thú nước thành bột dẻo đắp lên vết thương là yên tâm. Thuốc viên này thường được chế theo công thức: tạo giác một phần, bạch chỉ hai phần, tán thành bột, trộn với cơm dẻo giã nhuyễn, viên thành viên tròn bằng hạt đậu, lăn qua bột hùng hoàng làm áo, hong khô bảo quản trong lọ dùng khi cần.
- Thưa thầy, phác đồ trên có nói đến rượu hội và cục nọc, xin thầy cho biết thêm về tác dụng và sản xuất hai thứ ấy?
-1- Cục nọc có tác dụng hút độc nọc rắn, được dùng từ xưa ở nhiều nước, chẳng hạn ở Bỉ, có cả một cơ sở sản xuất cục nọc là những miếng xương bò nung trong môi trường khử rất cao, nên có sức hút mạnh. Đồng bào miền núi ta, dùng gạc hươu nai, cắt từng đoạn 4cm, chẻ thành dăm, đốt tồn tính bằng cách bọc đất sét ra ngoài dăm, nung trấu một đêm, để nguội gỡ đất ra. Sau khi đốt thành than hoạt tính, than xương có nhiều lỗ hổng nhỏ, máu độc sẽ bị các lực hút mao dẫn. Để thêm tác dụng màu nhiệm của cục nọc, người ta tẩm rượu hội, sấy khô để dùng. Nhân dân miền núi Hoà Bình, Thanh Hoá, dùng hạt đậu nọc già, khô bổ đôi làm cục nọc. Cách dùng cục nọc: đặt cục nọc lên vết cắn. Cục nọc dính vào vết cắn nhờ lực hút. Khi đã hút no, cục nọc tự bong ra. Nếu còn máu độc thì đặt cục nọc mới vào. Rượu hội đã được báo cáo ở hội nghị khoa học ngành dược Trung ương và được sản xuất ở Xí nghiệp dược phẩm Hà Nội từ năm 1962. Sau đây là một công thức sản xuất rượu hội: hoàng kỳ 2 chỉ, tế tân 3 chỉ, bạch chỉ 3 chỉ, châu thần 2 chỉ, ngũ linh chi 2 chỉ, bối mẫu 2 chỉ, tất cả tán nhỏ bỏ vào túi vải ngâm với 1/3 lít rượu tốt trong một tháng.
- Thưa thầy, nếu không thấy, không bắt được con rắn vừa cắn thì phân biệt rắn lành, rắn độc như thế nào?
- Theo kinh nghiệm dân gian, rắn lành như rắn ráo cắn để lại 4 hàm răng như mũi kim châm, khoảng cách đều nhau, hai hàng trong và hai hàng ngoài. Rắn độc cắn, chỉ có hai hàm răng, hai răng cái ở phía trước, dấu rõ hơn. Rắn lành cắn, vết thương có cảm giác hơi ngứa, có thể mẩn đỏ hoặc rớm máu, da xung quanh không tê tái, không nhức buốt, không phù nề, vết thương sẽ khỏi sau vài ngày. Rắn độc cắn, cũng có trường hợp vết thương không tấy đỏ, không sưng đau, chỉ hơi tê, làm ta dễ lầm với rắn lành cắn, nhưng lại nguy hiểm. Vài giờ sau, triệu chứng độc sẽ xảy ra, đó là trường hợp rắn cạp nia hoặc rắn biển cắn. Rắn hổ cắn, vết thương nhức dữ dội, lan nhanh, sưng tấy phía trên, có dấu hiệu hoại tử xuất huyết dưới da, có nhiều nốt bỏng xung quanh, các hạch huyết lân cận cũng sưng to. Khi bị rắn độc cắn, không chỉ chịu độc tố của nọc rắn mà nọc độc vào cơ thể kết hợp với các chất trong cơ thể làm phát sinh độc tố mới. Nguyên nhân gây ra tử vong cũng tuỳ thuộc vào khả năng chống đỡ của cơ thể và tình trạng cấp cứu của thầy thuốc. Có trường hợp không chét vì nọc rắn độc, mà chết vì nhiễm khuẩn.
- Thưa thầy, xin thầy cho biết về miễn dịch tự nhiên và miễn dịch mắc phải?
- Tất cả các loại rắn độc đều có khả năng miễn dịch với nọc độc của chúng. Rắn hổ mang lúc đói, nuốt cả con cái đồng loại mà vẫn bình thường. Một số loài động vật máu nóng như nhím, cày móc cua, ăn cả rắn hổ. Một số loài chim như chim ưng núi, bìm bịp, ó biển ăn rắn, cũng có khả năng miễn dịch tương tự, gọi là miễn dịch tự nhiên. Còn miễn dịch mắc phải, như một số ít người, có thể tai qua nạn khỏi, tuy liên tiếp nhiều lần bị rắn độc cắn. Có thể những người này không nhạy cảm với nọc độc rắn hoặc họ có bí quyết nào đó chữa khỏi khi bị rắn độc cắn. Cũng phải kể đến cả những người làm xiếc rắn, những người say mê làm nghề dụ rắn có từ thời cổ ở Ấn Độ nữa.


DƯƠNG KIM ANH
(nguồn: TCSH số 144 - 02 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ  là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.

  • Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?

  • LÊ THỊ MÂY

    1
    Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.

  • PHẠM HỮU THU

    Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.

  • Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.

  • Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.

  • INRASARA

    Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.

  • Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...

  • Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng  để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.

  • Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.

  • Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.

  • “Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.

  • Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

  • Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung  trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.

  • Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

  • Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.

  • (SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.

  • (SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…

  • Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.