Thừa Thiên Huế hưởng ứng cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

08:10 18/05/2015

CHÂU THU HÀ

Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tinh hoa và cốt cách của Người là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ, nhà báo.

Ảnh: internet

Sự sáng tạo của các văn nghệ sĩ, nhà báo đã xây dựng nên hình tượng đẹp về Người, đó chính là biểu tượng của ý chí, của niềm tin, của tình thương bao la. Không chỉ văn nghệ sĩ trong nước mà còn nhiều nghệ sĩ quốc tế đã có những tác phẩm xuất sắc ngợi ca Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Người là “hiện thân của một nền văn hóa tương lai”.

Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị (khóa XI), Quy chế số 05-QC/BTGTW ngày 1/10/2013 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Công văn số 6204-CV/ BTGTW ngày 5/5/2014 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Kế hoạch số 56-KH/BTGTU về hướng dẫn xét chọn, khen thưởng các tác phẩm văn học - nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” giai đoạn 2011 - 2015 (đợt 2), nhằm thiết thực chào mừng kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Người.

Thừa Thiên Huế tự hào là nơi ghi dấu chân của Người trong 10 năm thời niên thiếu, cũng từ đó, tính cách Huế, văn hóa Huế đã thấm đẫm trong tâm hồn Bác, trở thành một nhân tố quan trọng trong việc hình thành lòng yêu nước của Người sau này.

Chính vì vậy, ngay khi Cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên địa bàn tỉnh, đã có hàng trăm tác phẩm dự thi với nhiều đề tài phong phú và đa dạng. Các tác phẩm văn học - nghệ thuật, báo chí đã tập trung phản ánh làm rõ hơn tư tưởng, đạo đức của Bác, góp phần khẳng định nội dung, ý nghĩa sâu sắc của Cuộc vận động. Nhiều tác phẩm đã chú ý khai thác, biểu dương người tốt, việc tốt, góp phần tích cực nâng cao đạo đức cách mạng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Qua 3 năm triển khai thực hiện (2011 - 2014), nhận thức về mục đích, ý nghĩa của giới văn nghệ sĩ và những người làm báo trong tỉnh được nâng lên, đã có nhiều tác phẩm tốt, chất lượng cao. Mỗi năm, Liên hiệp các Hội VHNT, Hội Nhà báo tỉnh nhận được rất nhiều tác phẩm của các hội viên, văn nghệ sĩ, nhà báo trong tỉnh gửi về.

Ban Thường vụ Liên hiệp các Hội VHNT tỉnh đã phát động hội viên hưởng ứng tham gia bằng nhiều hình thức như tổ chức các trại sáng tác, đi thực tế, triển lãm, hội thảo chuyên đề… Quá trình tham gia xét giải, đã có 32 tác phẩm được giới thiệu và Liên hiệp các Hội VHNT đã tuyển chọn được 14 tác phẩm, công trình có chất lượng gửi xét thưởng ở cấp tỉnh gồm: 4 tác phẩm âm nhạc, 1 mỹ thuật, 4 tác phẩm văn học, 3 tác phẩm ảnh, 1 tác phẩm sân khấu, 1 tác phẩm văn nghệ dân gian, và 1 cá nhân có thành tích xuất sắc.

Hội Nhà báo tỉnh đã tích cực chỉ đạo các chi hội trực thuộc hưởng ứng, tham gia sáng tác, quảng bá và tiến hành tuyển chọn 14 tác phẩm báo chí xuất sắc. Trong 3 năm qua, đã có trên 2000 tin, bài, mẩu chuyện, hồi ký, ghi chép… được đăng tải ở các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh.

Hàng năm, Hội Nhà báo tỉnh đã tổ chức nhiều đợt đi thực tế, mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho hội viên theo chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; trích 20% kinh phí từ nguồn hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao của Nhà nước để đầu tư trực tiếp cho những tác phẩm báo chí có nhiều sáng tạo mang lại cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc cho người đọc, người xem.

Qua các tác phẩm dự xét thưởng, có thể thấy, sự lao động, sáng tạo được các văn nghệ sĩ, nhà báo tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thể hiện tâm huyết, trách nhiệm của đội ngũ để tạo nên những tác phẩm có giá trị, góp phần cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, giới thiệu và phát hiện những nhân tố tích cực, đem lại lợi ích cho xã hội và sự phát triển của quê hương, đất nước, lay động lòng người một cách chân thực. Bằng tấm lòng thành kính của mình đối với Bác kính yêu, các hội viên đã tìm tòi, đổi mới tư duy sáng tác, khắc họa sâu đậm hình tượng Bác Hồ trong mỗi tác phẩm của mình.

Để xây dựng những tác phẩm VHNT, báo chí thể hiện hình tượng Bác Hồ có chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật cao, đòi hỏi có sự tìm tòi, sáng tạo, cách tiếp cận vấn đề mới của mỗi tác giả. Với những thành công ban đầu, các hội viên thông qua tác phẩm của mình, tuyên truyền giáo dục nhân dân học tập và làm theo tấm gương của Bác, đóng góp sức lực, trí tuệ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước

Bên cạnh những nỗ lực và kết quả đã đạt được, việc khen thưởng chỉ mới dừng lại ở hội viên các hội chuyên ngành, những người làm báo chuyên nghiệp, chưa mở rộng đến được đội ngũ cộng tác viên và cán bộ nhân dân có tham gia sáng tạo tác phẩm VHNT, báo chí. Hoạt động sáng tác, quảng bá nói chung và các tác phẩm chất lượng cao nói riêng cần được đẩy mạnh tuyên truyền rộng rãi hơn, không chỉ dừng lại ở dịp trao giải thưởng.

Ban Sơ khảo cấp tỉnh xét thưởng các tác phẩm văn học - nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tuyển chọn được 2 tác phẩm đạt giải A, 3 tác phẩm đạt giải B, 6 tác phẩm đạt giải C và 8 tác phẩm đạt giải khuyến khích trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật và báo chí. Có 4 tập thể và 2 cá nhân được khen thưởng về những thành tích nổi bật trong hoạt động sáng tác, quảng bá đợt này. Tỉnh đã chọn 5 tác phẩm báo chí xuất sắc gửi về Hội Nhà báo Việt Nam, 5 tác phẩm văn học nghệ thuật xuất sắc gửi về Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam để dự xét thưởng nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Với lòng kính yêu, sự biết ơn vô hạn đối với Bác, các văn nghệ sĩ, đội ngũ báo chí và nhân dân Thừa Thiên Huế trong thời gian tới sẽ tiếp tục có nhiều tác phẩm giá trị. Đó sẽ là các tác phẩm đạt chất lượng cao về nội dung và nghệ thuật, sâu sát thực tiễn; góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tư tưởng, đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế, quảng bá hình ảnh quê hương, đất nước, con người xứ Huế.

C.T.H  
(SH315/05-15)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH