Thư về Huế

16:01 06/08/2012

CAO HUY THUẦN

Cách đây hơn một năm, tình cờ tôi gặp chị H. ở sân bay, đang cân hành lý để đi Mỹ. Chị bảo: Tôi qua Pháp nhân ngày giỗ đầu ông cụ tôi. Cả gia đình tụ họp đông đủ. Ông anh cả của tôi ở Pháp, tôi ở Mỹ qua, một cô em gái ở Đức, một cô em nữa ở tận Đan Mạch. Chúng tôi định lấy ngày kỵ ba tôi để mỗi năm một lần anh em gặp nhau.

Giáo sư Cao Huy Thuần - Ảnh: internet

Ba cháu nhỏ, con chị, ôm lấy chân mẹ. Chị xoa đầu đứa lớn nhất, chép miệng, giọng buồn buồn: Anh em gặp nhau vui quá, nhưng nhìn mười đứa nhỏ chơi với nhau, đứa thì tiếng Mỹ, đứa tiếng Pháp, đứa tiếng Đức, đứa líu nhíu tiếng Đan Mạch, chẳng đứa nào nói được tiếng Việt với đứa nào, tôi tự hỏi không biết hương hồn của ông nội ông ngoại chúng nó có buồn không. Tứ chiếng giang hồ, đúng là gia đình chúng tôi giang hồ tứ chiếng! Ngày trước tôi cứ nghe nói người Do Thái lang thang. Lang thang cái nỗi gì. Họ muốn về nước lúc nào lại chẳng được! Còn chúng tôi...

Nhưng chị lại cười ngay, với nụ cười muôn thuở dễ thương của chị: Nói gì thì nói, nhưng ví thử tôi chết đi, xuống địa ngục, Diêm Vương nó hỏi tôi muốn đầu thai lại thành người gì, tôi sẽ móc túi đút cho nó năm bảy cây để năn nỉ xin nó cho làm lại người Việt Nam. Tôi mà đi giữa đường đụng xe, nhắm mắt một cái là hồn bay một mạch về Huế liền.

Rồi chị cười dòn tan.

Tuần trước, tôi nhận được thư của gia đình chị. Thư báo tin chị H. vừa mất, không phải vì đụng xe mà vì ung thư.Tôi bàng hoàng, không tin. Suốt ngày nghe văng vẳng bên tai tiếng cười của chị.

Trước khi từ giã tôi, năm ngoái ở sân bay, chị còn lúi húi kê tập ngân phiếu lên va ly viết một món tiền tặng Huế. Tôi cám ơn chị và hứa sẽ mua một món quà xứng đáng với trái tim của chị. Chị bảo: Chính tôi phải cám ơn các anh chị, chính tôi phải cảm ơn Huế. Không bao giờ tôi dám nói là "tôi giúp Huế". Tôi luôn nghĩ rằng "Huế giúp tôi". Tôi sống lang thang như thế này, không mẹ cha làng nước, không cả cái giọng Huế trên môi mấy đứa con tôi, nếu không có Huế để tôi nghĩ tới, để tôi níu lấy, bám lấy thì tôi sẽ ra cái gì! Nếu không có cái mái chùa cong cong kia để tôi thấy thoang thoảng màu khói hương trên bức ảnh mẹ tôi, nếu không có mấy sợi bông cỏ bay bay trên mộ của ông ngoại tôi phía sau đồi Long Thọ, nếu không có Huế để tôi nghĩ rằng một ngày nào đó, tóc bạc phơ, tôi sẽ về dầm chân trong nước sông Hương giặt áo, làm sao tôi biết được tôi bây giờ là ai!

Hấp tấp ra máy bay, chị còn ngừng lại nói đùa: Nè, có nhớ chuyện ông Quan Công không? Quan Công thua trận, bị chặt đầu, đêm đêm cứ hiện về đòi trả đầu lại. Đến khi đầu ông được kẻ thù đặt lại vào cổ, hai mắt ông trợn lên, râu tóc dựng ngược, kẻ thù khiếp vía! Tụi mình sống ở đây, thân thể một nơi, lòng dạ một nơi, đâu có khác chi Quan Công bị đứt cổ. Mai mốt chết phải bay về Huế tìm lại ruột, chắp đầu. Chỉ tiếc là đàn bà thì không có râu để dựng ngược lên, dọa thiên hạ chơi!

Rồi chị cười dòn tan.

Hôm Tết vừa rồi, cô vợ của tôi từ Đức về thăm gia đình ở Huế, cô đi xe lửa từ Sài Gòn ra Huế và mua vé xe lửa ở Huế để vào lại Sài Gòn. Nhờ vậy mà có dịp gặp ông trưởng ga. Và cũng nhờ vậy mới biết rằng nhà ga Huế đang cần một cái đồng hồ lớn. Hành khách chờ xe lửa ở sân ga thì đông, mà không phải ai cũng có đồng hồ đeo tay, cứ người nọ hỏi giờ người kia. Nhà ga thì vắng giờ, bởi vì đồng hồ cũ đã hư từ lâu. Một nhu cầu nhỏ thôi, nhỏ quá, nhưng ở Huế đang có cả vạn nhu cầu nhỏ như vậy, và cũng đang có cả ngàn nhu cầu lớn. Cô em vợ tôi đề nghị là nếu Hội Người Yêu Huế tặng nhà ga Huế một cái đồng hồ lớn để báo giờ giấc cho hành khách chờ tàu, quà đó sẽ thiết thực biết bao, có ý nghĩa biết bao!

Tôi chợt nghĩ đến lời hứa của tôi năm ngoái với chị H. Trên một năm nay, tôi chưa biết phải tặng Huế một món quà gì ấm áp như trái tim của chị. Một chiếc đồng hồ treo trước ga, giữa lòng thành phố! Tôi tưởng như thấy nụ cười bằng lòng của chị.

Chúng tôi sẽ mang đồng hồ về cho nhà ga Huế. Và chưa chi, chúng tôi đã thấy đồng hồ gắn trước nhà ga, thấy nỗi vui của ông trưởng ga Huế, thấy bao nhiêu ánh mắt đang nhìn hai cây kim chuyển động, không phải do một bộ máy nào mà là do lòng quyến luyến Huế của một người đang nằm ở cõi xa.

Một buổi tối, nằm không ngủ, tôi nghe chuông nhà thờ gõ, bỗng như nghe tiếng tích tắc của đồng hồ trước nhà ga Huế. Rồi bất chợt tôi nghĩ đến chị H. nghe tiếng cười dòn của chị, nhớ đến chuyện ông Quan Công chị kể, nghĩ đến hồn chị đã bay về Huế như chị nói. Trong đầu tôi chờn vờn hình ảnh mấy cọng cỏ may, một đám cỏ khô, vài con châu chấu tỉ tê trong cỏ, một làn khói hương nhẹ tan trong nắng chiều. Rồi tôi lại nghe tiếng tích tắc của đồng hồ và rùng mình chợt nghĩ không, đó không phải là tiếng đồng hồ, đó là nhịp đập của trái tim chị H. Tim chị đã nhập vào tiếng đồng hồ kia để sống lại giữa Huế của chị. Tim chị đập với người đưa. Tim chị đập với người đón. Tim chị đập báo tàu đến. Tim chị đập tiễn tàu đi. Tim chị đập như trái tim của thành phố, như nhịp sống, như buồn vui của sông núi phố phường. Hai cây kim kia là hai cánh tay của chị. Chị dang tay ra chỉ thời gian, chỉ lịch sử đang quay. Không, đó không phải là tiếng đồng hồ trước nhà ga Huế, đó là nhịp đập của trái tim chị. Tôi biết chắc chắn như vậy, bởi vì trái tim đó không thể đập ở đâu khác hơn là giữa lòng đất thân yêu của chị, của anh, của tôi. Giữa Huế.

C.H.T.
(SH23/01-87)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THÁI KIM LAN

    (SH) - Ở đây mỗi ngày tôi đi dạo khoảng 45 phút đến 1 tiếng đồng hồ, mỗi lần tôi đếm được 4500 bước, có ai như tôi, là đi vòng được 2/3 công viên, đi hết 6500 bước là đến tòa lâu đài nhỏ Blutenburg, tính ra mỗi ngày tôi đi khoảng hơn 2 đến 3 cây số, nơi tôi ở gọi là Nymphenbad, nơi tắm của các nàng tiên, khoái chưa?

  • VÕ QUANG YẾN
    (Thân tặng tất cả các bạn yêu Huế)

    37 năm ra đi tưởng không hẹn ngày về. Thế mà rồi tôi cũng mua vé máy bay lên đường về thăm quê.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Gặp gỡ với anh Lê Huy Cận, Tổng thư ký Hội “Người yêu Huế” ở Pháp)

  • Trên giải đất hình chữ S mà đáng lẽ chúng ta phải sống, có chỗ nào mà chúng ta không nhớ, không thương! Nhưng dĩ nhiên, có chỗ chúng ta thương nhiều hơn một chút. Đó có thể là chỗ mà chúng ta sinh ra, lớn lên. Chỗ mà chúng ta lưu lại nhiều kỷ niệm. Đó cũng có thể là chỗ mà vì một duyên cớ nào đấy thôi, ta bỗng thấy gắn bó suốt đời.

  • THÁI THU LAN Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Vua Hàm Nghi (1871 - 2011)

  • VÕ QUANG YẾNHữu duyên thiên lý năng tương ngộVô duyên đối diện bất tương phùng(*)                                                Phong dao

  • NGUYỄN PHAN QUẾ MAISân bay Huế, tối ngày 14/12/2010, một người đàn ông cao lớn tóc đang chuyển màu đăm đắm nhìn qua cửa kính. Ông đang cố gắng níu giữ hình ảnh của từng cành cây, ngọn cỏ, từng hơi thở mát lành của sông Hương vào trong trí nhớ của mình.

  • THANH TÙNGTốt nghiệp Cử nhân Văn khoa, dạy học một năm ở trường Đồng Khánh, Thái Kim Lan qua CHLB Đức học khóa đào tạo giáo sư Đức ngữ của Viện Goethe Munich, với học bổng của Viện trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD).

  • VÕ QUANG YẾNĐây không phải là lần đầu tiên có múa cung đình trên sân khấu Paris. Trước đây, chẳng hạn như đầu năm 2004, một đoàn ca múa của Nhà hát Nghệ thuật Cung đình thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã biểu diễn ở trụ sở Unesco trong buổi lễ trao tặng bằng công nhận 28 kiệt tác là di sản phi vật thể thế giới và truyền khẩu nhân loại, trước khi trình bày chúc Tết kiều bào Paris, Lyon, Marseille, Bruxelles.

  • HÂN QUY“Làm gì để có tiền giúp Huế mà tránh đi quyên”, đó là ý nghĩ cứ xoáy trong đầu óc mỗi anh chị em chúng tôi đã lâu và nhất là trong buổi tiếp xúc đầu tiên với bà Nguyễn Đình Chi ở nhà chị Song, trưa ngày thứ bảy 1-10-1983. Có một anh bạn gợi ý: “Tại sao chúng ta không nhân dịp có bà Chi đang còn ở đây để tổ chức một bữa cơm?”

  • HƯƠNG CẦN      (Chuyện ít ai biết trong làng âm nhạc)Nhạc sỹ, Giáo sư viện sỹ Lưu Hữu Phước (1921-1989) là tác giả của rất nhiều hành khúc nổi tiếng. Với tài năng của mình, từ bài hát này đến bài hát khác, ông đã góp phần nuôi dưỡng những phong trào cách mạng to lớn.

  • HÀ VĂN THỦYCó thể nói nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đã tạo nên một hiện tượng thơ, nhiều tập thơ của bà được in với số lượng lớn, tác quyền bà thường nhận sách mà không nhận tiền, những nơi in thơ cho bà vẫn dành cho bà những niềm ưu ái. Công ty Văn Hóa Sáng Tạo Trí Việt (First News) in tiếp hai năm hai cuốn Hãy Cho Nhau - Nước Vẫn Xanh Dòng (2004 - 2005).

  • TRẦN HỮU LỤCKhởi đầu là nỗi nhớ Huế, tác giả Phan Thị Thu Quỳ viết về quê quán,thời niên thiếu như một cách giãi bày, chia sẻ. Những trang viết như sông Hương âm thầm chảy qua những ngõ ngách đời người, trong trẻo và cuốn hút.

  • TRẦN THỊ LINH CHITừ ngày theo chồng vào Nam, tính ra xa Huế hơn nửa thế kỷ, đất khách quê người, hiếm khi được nói hay nghe tiếng của quê hương một cách trọn vẹn. Ngay trong gia đình, đến đời cháu nội, cháu ngoại thì đã rặt tiếng miền Nam. May mắn bên mình còn có ông “Dôn”(*) người thường xuyên “gợi nhớ” qua câu nói đầu môi khi đối thoại: Mụ ơi!

  • TRẦN CÔNG TẤNNhững ngày làm báo, tôi đã biên tập mấy bài của cộng tác viên Võ Quang Yến từ Pháp gửi về. Tôi biết rõ ông là một nhà khoa học lớn, hàng chục năm liền làm Giám đốc ở Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp. Vài lần ông về làm việc giúp nước, chúng tôi đã gặp nhau.

  • TÔN NỮ NGỌC HOANhư một “kẻ bị lưu đày trên đảo xanh”, Hữu Vinh luôn hướng về quê nhà với trái tim của chàng trai 18 tuổi - tuổi của ngày rời xa người mẹ thân yêu, xa tiếng chuông chùa Thiên Mụ, xa con đường đến trường xuôi theo giòng Hương quen thuộc đến chân trời mới lạ để rồi bằn bặt 18 năm sau mới có cuộc đoàn viên rưng rưng nước mắt trên quê xưa.

  • TRUNG SƠNVậy là tôi không còn dịp để được thăm chị nữa rồi!Mấy năm trước, khi nhà văn Nhất Lâm, một người cháu của nhà thơ Vĩnh Mai, cho biết chị Phương Chi đã phải vào sống những năm cuối đời tại Trại Dưỡng lão ở Hà Đông, tôi đã phải thốt lên: “Trời! Sao lại thế?!...”

  • THÁI KIM LAN...“Cắt từng miếng da non nhìn xem, tôi vẫn vậy/ Chảy ròng ròng trong máu nước sông Hương”...Bỗng tôi thấy em cũng về lại đó.../ Tôi lại cùng em đi thăm chợ Tết/ Em nép mình sưởi ấm với vai tôi/ Đôi mắt, nụ cười, môi hồng rực rỡ/ Huế đây rồi nhờ có em tôi                         (“Hải đường say nắng”, Chỉ có anh mới nhận ra em)...

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNThạch Hãn - Mồ hôi của đá chứ không phải mồ hôi đá. Tương truyền rằng, phía cực Tây Trường Sơn có ngọn núi Linh Sơn cao ngất, thường đổi màu từ cổ đồng lúc bình minh, đỏ thẫm giữa ban trưa và tím ngát vào ban chiều. Vào một buổi chiều thuở hồng hoang, có con chim Phượng Hoàng bay ngang núi tím. Núi quá cao khiến chim rủ cánh phải đổ xuống từ lưng trời làm vỡ một góc núi. Không hiểu suối khe, mồ hôi hay nước mắt của núi đã tuôn ra từ khe núi bị nứt tạo thành một dòng sông chảy miết về phía đồng bằng, tuôn ra biển. Dòng sông đó là dòng sông Thạch Hãn.

  • VÕ QUANG YẾN                Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương,                Mái nhì man mác nước sông Hương.                                                     Tố Hữu