JEAN-PAUL SARTRE (Nhật Vương dịch)
Jean-Paul Sartre (1905 - 1980), nhà văn Pháp, là một trong số những gương mặt tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh, thường được vinh danh là một trong số các triết gia hàng đầu của nền triết học Pháp thế kỷ XX.
Jean-Paul Sartre (1905 - 1980) - Ảnh: internet
![]() |
Các tác phẩm của ông đã từng bước định hình nên hệ khái niệm quan trọng cho kiểu mẫu tâm thức hiện sinh: buồn nôn, ngụy tín, tự do và hư vô. Năm 1964, ông được Viện hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học với thông cáo được nêu ra như sau: Giải thưởng được trao cho Sartre “vì các tác phẩm giàu ý tưởng của nhà văn, được khỏa chiếu bởi tinh thần tự do cũng như việc truy vấn sự thật, những điều đã ảnh hưởng sâu sắc lên thời đại của chúng ta”. Thông cáo được đưa ra, nhưng Sartre đã từ chối giải thưởng. Liền đó, Sartre đã viết một bức thư giải thích việc khước từ giải thưởng của mình đăng trên tờ tạp chí ở Thụy Điển vào ngày 22/10. Trong bức thư này, Sartre đã lấy làm tiếc rằng việc từ chối giải thưởng của ông đã làm dấy lên một vụ tai tiếng, cũng như việc ông khước từ giải thưởng cũng không thể thay đổi được quyết định của Viện đã đưa ra. Qua thư, Sartre muốn nói rằng việc từ chối giải thưởng của ông không có nghĩa là ông coi nhẹ Viện hàn lâm mà đúng ra là vì một số lý do khách quan cũng như lý do cá nhân. Với lý do cá nhân, Sartre cho rằng quan niệm của ông về nhiệm vụ của nhà văn là từ chối bất kỳ một sự vinh danh nào thuộc về chính quyền, việc chấp nhận vinh danh sẽ khiến cho những cam kết cá nhân phải dính mắc với những thiết chế của chính sự vinh danh đó, và trên hết, một nhà văn sẽ không cho phép anh ta đi theo bất kỳ một thiết chế nào cả. Với lý do khách quan, Sartre mong muốn đến việc rằng ông sẽ không nghiêng về bất cứ bên nào trong sự tương tranh lẫn nhau giữa hai mô hình ý thức hệ của cả Đông lẫn Tây. Ông nghĩ rằng, việc vinh danh giải thưởng sẽ không thể hiện đúng đối với những nhà văn thuộc về các quốc gia khác nhau lẫn ý thức hệ không giống nhau. Do đó, ông thấy rằng, việc ông chấp nhận giải thưởng sẽ có thể gây phiền hà và thật sự là bất chính. Sartre kết thúc thư với một niềm cảm kích gửi đến công chúng Thụy Điển. Với bức thư này, Sartre chính thức trở thành người đầu tiên từ chối giải thưởng Nobel Văn học đầy danh giá.
Tuệ Đan (gt)
Tôi rất lấy làm tiếc khi mọi chuyện đã đi quá xa, đến mức xì xầm vậy: giải thưởng đã được trao, và tôi thì từ chối. Chuyện ra nông nỗi thế, là bởi tôi đã không được báo sớm hơn, về những gì diễn ra lúc ấy. Khi tôi đọc trên tờ văn nghệ Figaro số giữa tháng 10, trong mục trao đổi của thông tín viên từ Thụy Điển, rằng lựa chọn của Viện hàn lâm Thụy Điển đang nghiêng về tôi, nhưng quyết định cuối cùng vẫn chưa được đưa ra, tôi đã nghĩ, rằng viết một lá thư gửi tới Viện hàn lâm, và thực là tôi đã gửi nó ngay ngày hôm sau, tôi có thể làm mọi việc tường minh hơn, và sẽ không còn phải cân lên đặt xuống thêm gì nữa.
Tôi đã không hay rằng, khi trao giải Nobel, người ta sẽ không tham vấn ý kiến của người nhận, và tôi cũng đã tưởng rằng, mình sẽ có đủ thời gian để lay chuyển quyết định ấy. Nhưng giờ thì, tôi hiểu, khi Viện hàn lâm Thụy Điển trao giải, quyết định sau cùng sẽ không thể thay đổi được.
Lí do tôi từ chối giải Nobel lần này, không xuất phát từ phía Viện hàn lâm Thụy Điển, cũng như bản thân giải Nobel, như tôi đã giải thích trong lá thư gửi tới Viện. Trong thư ấy, tôi có ý viện dẫn tới hai lí do: cá nhân và khách quan.
Lý do cá nhân, ấy là: việc từ chối của tôi không phải là một cái phẩy tay bốc đồng, tôi lâu nay vẫn luôn khước từ trước các giải thưởng chính thống. Năm 1945, ngay sau khi chiến tranh kết thúc, khi ấy tôi được đề nghị trao tặng giải Bắc đẩu bội tinh, tôi đã từ chối, mặc dù tôi cùng một chiến tuyến với chính phủ. Cũng vậy, tôi chưa bao giờ cố mà kiếm một chân ở trường Collège de France, như các bạn tôi khuyên.
Cái lối riêng này của tôi, là bởi, tôi dựa vào cái ý niệm mà tôi đinh ninh về công việc bếp núc của một nhà văn. Một nhà văn, anh có thể theo đuổi con đường chính trị, hay các vị trí xã hội, nhưng anh chỉ có thể sống theo cách duy nhất, cùng với công cụ mà anh nắm trong tay - ấy là, chữ nghĩa. Tất cả những vinh hạnh anh có thể nhận được, sẽ đặt độc giả của anh trước một áp lực mà tôi thì không lấy gì làm hào hứng. Nếu tôi kí tên mình Jean-Paul Sartre, nó chẳng giống như cách tôi ký, giả dụ như Jean-Paul Sartre, một nhà văn đoạt giải Nobel.
Nhà văn, khi chấp nhận một vinh quang như ấy, sẽ gắn tên tuổi mình với nó, cũng như với tổ chức, thiết chế đã vinh danh mình. Những mối cảm tình của tôi với các nhà cách mạng giải phóng người Venezuela chỉ liên đới mình tôi, trong khi, nếu là một Jean-Paul Sartre đã từng nhận giải Nobel mà cổ võ cho lực lượng nổi dậy người Venezeala, thì Jean-Paul Sartre ấy cũng sẽ liên đới tới giải Nobel, như một thiết chế.
Một nhà văn, vì thế, phải khước từ, để bản thân mình khỏi mang lấy danh của một thiết chế nào đấy, ngay cả khi việc này xảy ra trong những cảnh huống vinh hạnh nhất, như trường hợp của tôi.
Cách ứng xử này, dĩ nhiên, là do tôi lựa chọn, và nó không mang bất kì một ý niệm phê phán gì, tới những người đã từng nhận giải. Tôi có một sự ngưỡng mộ và tôn kính lớn lao tới rất nhiều người đã được nhận giải ấy, những người mà tôi vinh hạnh biết tới.
Về lí do từ chối do yếu tố khách quan: Ngày nay, trận chiến duy nhất trên mặt trận văn hóa là trận chiến cho sự cộng sinh trong yên bình giữa hai nền văn hóa, một Đông, một Tây. Tôi không có ý, rằng chúng phải dung hợp lẫn nhau - tôi biết, khi hai nền văn hóa đối mặt, rồi đây sẽ phải có những kiểu xung đột nhất định - nhưng cuộc chạm trán ấy phải là cuộc chạm trán giữa những người đàn ông và các nền văn hóa, chứ không thể có sự can thiệp của các thiết chế.
Bản thân tôi chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi sự mâu thuẫn giữa hai nền văn hóa: tôi được hình thành từ chính mối mâu thuẫn ấy. Mối tương cảm của tôi, tất nhiên, là dành cho chủ nghĩa xã hội và cho, cái mà chúng ta vẫn gọi là khối phương Đông, nhưng tôi được sinh ra và nuôi dưỡng trong một gia đình trung lưu và nền văn hóa tư bản. Điều này cho phép tôi có thể cộng tác với những người nỗ lực bắc cầu cho hai nền văn hóa ấy sát lại gần nhau hơn. Tôi, tuy thế, hy vọng rằng, dĩ nhiên “lựa chọn tốt nhất sẽ thắng”. Ấy là, chủ nghĩa xã hội.
Đó là lí do vì sao tôi không thể đón nhận giải thưởng đầy vinh hạnh này, từ tay của các giới chức văn hóa, vốn thuộc về phương Tây thay vì phương Đông, ngay cả khi tôi tương cảm với sự hiện hữu của họ. Mặc dù tất cả mọi tương cảm của tôi là dành cho phía những người theo chủ nghĩa xã hội, tôi tuy thế, sẽ không thể vì vậy mà chấp nhận, chẳng hạn, giải thưởng Lê-nin, nếu như có ai đó muốn trao cho tôi, tất nhiên là không phải lần này.
Tôi biết rằng giải Nobel, bản thân nó không phải là một giải thưởng văn chương của khối phương Tây, nhưng nó là thế khi quan sát bàn tay người trao, và những gì có thể diễn ra, là nằm ngoài tầm kiểm soát của các thành viên của Viện hàn lâm Thụy Điển. Đó là tại sao, ở vị trí hiện tại, giải Nobel vẫn đứng ra, một cách khách quan, như một sự phân biệt, dành sẵn cho các nhà văn phương Tây, hoặc cho những người nổi loạn ở phương Đông. Nó đã không được trao thưởng, chẳng hạn, cho Neruda, một trong số những nhà thơ xuất sắc nhất Nam Mỹ. Người ta chưa bao giờ đặt những câu hỏi nghiêm cẩn, về việc trao giải cho Louis Aragon, mặc dù ông ấy rõ ràng xứng đáng nhận. Thật là đáng tiếc, khi giải thưởng đã được trao cho Pasternak, thay vì cho Sholokhov, và chỉ có một tác phẩm của Soviet được vinh hạnh nhận thưởng, ấy là nó được xuất bản ở nước ngoài và bị cấm lưu hành trong nước. Một sự cân bằng có thể đã được thiết lập nhờ vào một cách ứng xử tương tự, theo một hướng khác. Trong thời chiến ở Algeria, khi chúng tôi kí “tuyên bố của 121 [trí thức]”, có lẽ tôi nên vinh hạnh chấp nhận giải thưởng, vì nó sẽ vinh danh không chỉ tôi, mà cả nền tự do mà chúng tôi đã vì nó cùng nhau chiến đấu. Nhưng vấn đề là chuyện nó không như vậy, và chuyện chỉ được để tâm sau khi cuộc chiến kết thúc và giải thưởng được trao cho tôi.
Khi bàn về lí do cho quyết định của Viện hàn lâm Thụy Điển, một ý được nhắc tới là tự do, một từ có rất nhiều cách diễn giải. Ở phương Tây, chỉ có tự do chung chung là có nghĩa: cá nhân tôi cho rằng, một nền tự do phải cụ thể hơn, trong đó, người ta có quyền có hơn một đôi giày, và ăn no đến chán. Với tôi, hình như, sẽ ít nguy hiểm hơn khi từ chối giải thưởng thay vì chấp nhận nó. Nếu tôi chấp nhận, tôi sẽ hiến mình cho những gì mà tôi gọi là “một sự cải hồi khách quan”. Theo như bài báo đăng trên tờ văn nghệ Figaro, “một quá khứ chính trị rắc rối sẽ không bị coi là rào cản với tôi”. Tôi biết bài áo ấy không thể hiện quan điểm của Viện hàn lâm, nhưng rõ ràng nó cho thấy việc tôi chấp nhận giải thưởng, sẽ bị diễn giải theo hướng nào từ phía những người cánh tả. Tôi coi cái “quá khứ chính trị rắc rối” ấy vẫn là điểm để lưu tâm, dù rằng tôi đã phần nào chuẩn bị cho việc thừa nhận với những người đồng chí của mình về những lỗi lầm quá khứ nào đó.
Tôi không vì thế cho rằng, Nobel là một giải thưởng “tư sản”, nhưng giải thưởng ấy sẽ bị người ta hiểu là một giải thưởng tư sản bởi những nhóm phái nhất định mà tôi chẳng lạ gì.
Cuối cùng, tôi xin được nói đôi chút về vấn đề tiền bạc: nó là một gánh trĩu nặng mà Viện đặt lên vai người nhận thưởng, khi cùng với sự tôn vinh, còn là một món tiền rất lớn. Điều ấy đã cật vấn đầu óc tôi. Hay là chấp nhận giải thưởng và món tiền kèm theo để hỗ trợ các tổ chức hoặc phong trào, một điểm quan trọng để cân nhắc - tôi lại chỉ nghĩ về ủy ban Apartheid ở London. Hay là từ chối giải thưởng dựa trên các nguyên tắc rộng rãi, và do đó, cướp đi một cơ hội để hỗ trợ phong trào vốn đang cần kíp. Nhưng tôi tin rằng, nó là một vấn đề bị hiểu sai. Rõ ràng là tôi từ chối 250,000 crowns, vì không muốn bị gán cho là thuộc về phía Đông hoặc Tây. Nhưng mặt khác, người ta không thể bị yêu cầu từ chối, cho số tiền 250,000 crown, nguyên tắc không chỉ thuộc về một cá nhân, mà được chia sẻ bởi tất cả các đồng chí của người ấy.
Đó là những gì đã khiến tôi đớn đau, kể cả nhận thưởng, và cả từ chối, việc mà với tất cả sự trọng thị tôi đã làm.
Tôi mong được kết thúc lá thư công bố này với một thông điệp về một tình cảm nồng hậu dành cho công chúng Thụy Điển.
Nhật Vương
Chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh của Richard Howard, “Sartre on the Noble Prize”, link: http://www.nybooks.com
(SHSDB23/12-2016)
LỖ TẤN
Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy.
THUẬN AN
(Đọc cuốn ký sự đường xa “18 tuổi và chuyến phượt solo đầu đời trên đất Mỹ” của Phạm Nguyễn Linh Đan, Nxb. Hội Nhà văn 2018).
(Để tưởng niệm thi sĩ Mary Oliver, vừa mất ngày 17 tháng 1, 2019, tại Florida, 83 tuổi)
ĐỨC TÙNG
CHU HUY SƠN
Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.
Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn (còn sống) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best- seller (số liệu tính đến tháng 6/ 2015). Ngày 22/12/2016, trong danh sách 200 tác giả có ảnh hưởng lớn nhất thế giới do công ty Richtopia đề xướng, Paulo Coelho được kể tên ở vị trí thứ 2.
WILLIAM D. ADAMS
LGT: William D. Adams hiện là học giả cao cấp tại quỹ hỗ trợ nhân văn và khoa học nghệ thuật lừng danh Andrew W. Mellon của Hoa Kỳ. Từ 2014 - 2017, ông được Tổng thống Obama (lúc đương nhiệm) bổ nhiệm giữ chức vụ chủ tịch Tổ chức Quốc gia về Nhân văn (NEH) - cơ quan độc lập của chính phủ tài trợ các dự án văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục.
PABLO NERUDA
LGT: Pablo Neruda, nhà thơ Mỹ Latinh nổi tiếng thế giới, sinh năm 1904 tại Parral, Chile. Năm 1920 ông đến Santiago để học tập và công bố bài thơ đầu tiên “La canción de la fiesta” (1921), rồi được biết đến rộng rãi qua tập thơ “Crepusculario” (1923).
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Tôi xin được dùng tên một bài thơ viết tại Paris của mình làm tựa đề cho bài viết này. Đó là những cảm xúc thăng hoa, những phút giây hạnh phúc và cũng là những kỷ niệm khó quên cùng bạn thơ của 24 quốc gia tham dự cuộc thi Slam thơ Quốc tế 2018 tại Paris tháng 5/2018 vừa qua.
PHẠM HỮU THU
Nhân loại kính nể không chỉ vì đất nước Nhật Bản bình tĩnh ứng phó thiên tai mà còn gây thiện cảm qua hành vi ứng xử của họ.
NGUYỄN THANH VIỆT
Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).
(T. Segers đặt câu hỏi, Hans Robert Jauss trả lời, Timothy Bahti dịch [sang tiếng Anh], Tạp chí New Literary History, Vol. 11, No. 1, Johns Hopkins University Press, 1979).
HENRY SLESAR
Nhà văn nổi tiếng Henry Slesar (1927 - 2002) viết tiểu thuyết, kịch bản, trinh thám, khoa học viễn tưởng đặc sắc về thủ pháp hài hước, kết cục trái chiều.
PHẠM ĐĂNG
Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).
Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.
HENRY JAMES
Henry James: Nhà văn Mỹ (1843 NewYork - 1916 Luân Đôn), viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học, nghệ thuật Pháp. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009). Chủ đề: Ý thức, tâm lý; mơ mộng, tình cảm; vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trước khi biết lòng tử tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều thứ
NGUYỄN DƯ
Đọc Thơ Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương Hàn (687 - 726):
Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi.
PHẠM TRƯỜNG THI
Tôi và nhà văn Hà Phạm Phú nhận lời mời của Hội Nhà văn Việt Nam đi dự Hội thảo văn học quốc tế Trung Quốc và các nước lưu vực sông Mê Kông gồm: Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam được tổ chức từ ngày 21 đến 25 tháng 5 năm 2017 tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, khu tự trị dân tộc Choang Trung Quốc.
W.S. PEIRIS
W.S.Peiris sinh 1932; đạt giải nhì truyện ngắn tiếng Anh trong cuộc thi Văn học quốc gia Tích Lan năm 2008. Hiện ông sống tại Kiribathgoda, Sri Lanka.