NGUYỄN KINH BẮC
"...Mình biết, mỗi người đều có một Huế riêng cho mình. Riêng với mình, Huế bắt đầu là ở câu thơ này:
"Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng
Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai".
Huế xưa một thời - Ảnh: sưu tầm
Huế nhẹ nhàng, thoát tục đến thế là cùng. Mình mang hình ảnh Huế ấy từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Rồi đi lính, nhận lệnh vào mặt trận Bác Đô (*) mình mừng biết bao. Nhưng thật buồn, mình chưa được gặp Huế bao giờ. Đánh trận Am Cây Sen mình bị đại bác cưa cụt chân, được khiêng ra hậu phương, từ đấy Huế mãi mãi chỉ còn là trong tâm tưởng, chỉ còn trong mỗi đợi chờ khôn nguôi.
Năm 1983, năm thứ mười mình để lại một chân trên đất Huế, tự nhiên nhớ Huế lạ lùng. Chẳng lẽ một phần thân thể cũng có một chút tâm linh chăng, mà nó làm mình nôn nao đến thế?
Huế ra sao? Sông Hương còn trong như xưa? cầu Tràng Tiền vẫn như dát bạc trong nắng chiều chứ, và còn có nàng thiếu nữ đẹp như mơ bên sông vê áo nghiêng nón chờ ai? Hãy thư cho mình đi. Một dòng từ Huế mình nhận được lúc này có ý nghĩa biết bao.
Sắp tết rồi. Không biết Huế có một chút nhớ thương nào đối với những người lính đã từng sống một thời trai trẻ của mình trên mảnh đất Kinh Thành?"...
Đọc thư Luông tôi cũng thấy nôn nao. Khó là trả lời sao đây với một người yêu Huế như anh. Nguyễn Luông không hề hỏi gì về lăng tẩm, điện đài... mà anh đam mê "cô gái thẫn thờ vê áo mỏng", đứng bên bờ sông Hương kia. Nhớ ngày mới giải phóng, Đỗ Chu và Bùi Bình Thi vào Huế, thấy các cô gái Huế thướt tha trong bộ đồ dài trắng, Bùi Bình Thi xuýt xoa: "Các em Huế đẹp quá, đến nỗi nhìn các em, mình chỉ muốn cắn một miếng", nói như Xuân Diệu "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi" chăng? Luông không thế, ở anh thẳm sâu hơn, cái thẳm sâu của ký ức học sinh đầy thơ mộng.
Khách du lịch thập phương đến Huế, đều chung một cảm giác. Không có sông Hương thì Huế không còn là Huế nữa. Có lẽ Thu Bồn đã diễn đạt tâm trạng ấy rất đúng: "Con sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu". Cái bắt gặp đầu tiên của bất cứ ai đến Huế là dòng sông, sau đó mới đến thành quách. Quả thật sông Hương làm cho Huế cái ngan ngát trời mây đến mơ màng. Luông nói đến sông Hương, nói đến tà áo trắng, Luông đã hiểu thấm đậm Huế rồi.
"Sông Hương vẫn trong như xưa, trong đến tận đáy Luông ạ. Mùa lũ thì kể gì, nước rừng dồn về mấy ngày, dòng sông lại dùng dằng chảy. Đứng bên cánh gà cầu Tràng Tiền, nhìn thấy cả rừng rong rêu với bầy cá lượn lờ. Nước vẫn trong như cái đêm chúng mình vượt sông Hương ở bến Đình Môn. Giữa dòng Tấn bị chuột rút. Gần quận Nam Hòa quá, kêu sợ địch phát hiện, Tấn đành cắn răng chìm xuống dòng nước. Sáng hôm sau chúng mình quay lại tìm Tấn trên chiếc thuyền câu, nhìn thấy Tấn vẫn ôm ghì cây súng dưới làn nước trong tận đáy, như đang ngủ ấy".
Đời lính chúng tôi nhiều kỷ niệm như thế, Luông nhớ sông Hương cũng phải. Nhớ ngày mới giải phóng, mấy đứa bộ đội chúng tôi ngồi bên bờ sông Hương sau đài phát thanh, không phải ngồi hóng gió đâu, chúng tôi ngồi để nhìn cầu Tràng Tiền trong nắng chiều tím của Huế. Toàn bộ cây cầu tim tím màu hoa cà. Và trên ấy những tà áo dài thướt tha. Có ba cô đi với nhau. Một cô mặc áo màu vàng anh, một cô mặc áo màu thanh thiên, một cô mặc áo màu đỏ. Gió chiều tung tà áo, các cô dùng hai ngón tay kín đáo giữ tà áo lại. Chiều Huế thơ mộng ấy, một người nhắc tới Luông:
- Có thằng Luông ở đây, chắc nó sẽ "chết" vì Huế mất.
Chỉ có sông ấy, cầu ấy, màu sắc ấy, mây nước ấy mới tạo nên cái nhẹ nhàng thanh thoát không dễ gì có được của Huế ở bất cứ nơi nào.
Huế không có những công viên lớn giữa thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, nhưng đôi bờ sông Hương tạo nên bốn công viên lớn: Công viên Phú Xuân, công viên Thương Bạc, công viên Đài tưởng niệm và công viên mồng 3 tháng 2. Đã có lúc anh Kỳ Sơn định lập vườn thú ở công viên Đài tưởng niệm nhưng không thành. Vài con nai, mấy con bồ nông, đôi ba chuồng khỉ được đưa về, thiếu vốn, vườn tan.
Trong hai năm 91 và 92 tỉnh đã đầu tư 1 tỷ mốt cho công ty công viên sửa sang một ít cảnh quan bước đầu.
"Công viên đôi bờ sông, tự thân nó đã có những cảnh quan của những dấu tích lịch sử: cầu Tràng Tiền, Bến Tòa Khâm, Bia tưởng niệm chiến sĩ trận vong, cột cờ, lầu Phu Văn, Nghinh Lương Đình. Trước đây hai bên Phu Văn Lâu có hai nhà để trưng bày những kỷ vật trong nước tiến vua. Bây giờ không còn. Sau này không biết có dựng lại? Hai năm nay mới xây xong sân Phu Văn Lâu và Nghinh Lương Đình bằng xi măng. Các đĩa hoa trong công viên đã được sửa sang, cụm rồng phun nước đã được tôn tạo. Đặc biệt công viên Thương Bạc đã được chỉnh tu lần thứ hai khá khang trang. Ngay như ở hai cột Bi Đình trong Thương Bạc, bốn cặp câu đối của tiến sĩ Nguyễn Khắc Niêm đã được truy cứu, tìm lại, để đắp lại trên Di Đình những chữ bị vỡ nát. Các bãi hoang đã được trồng cỏ với những cụm cây cảnh. Nếu Luông đến Huế dịp tết này, cảnh sắc đôi bờ sông Hương đã bớt hoang tàn đi rất nhiều".
Trong Hoàng Thành mấy năm nay đã làm được một số việc: Trùng tu lại cửa Hiển Nhơn, Lầu Ngũ Phụng, lầu Hiển Lân Các trong Thế Miếu, thay thế, trang trí lại các cột điện Thái Hòa. Rất đáng giá là công ty di tích đã tổ chức đốt lò tại chỗ làm được gạch trang trí, ngói hoàng lưu ly và thanh lưu ly. Phải có những vật liệu ấy mới thực hiện được các kế hoạch trùng tu, phục chế sau này.
Luông chưa đến Huế, nên chưa thấy các công trình này quan trọng như thế nào đối với Huế. Cũng như những người yêu Huế ở xa, thường chỉ sống trong tâm tưởng mình một Huế mộng và thơ.
Huế đẹp thanh nhã, dịu dàng, kín đáo như tà áo dài chứ không rộn rã, ồn ào đua chen. Đã có một thời Huế vắng bóng những tà áo dài, ai cũng có cảm giác rất rõ ràng giống như những món ăn ngon nhưng thiếu muối. Vắng bóng áo dài, Huế mất đi rất nhiều. Nhất là hai trục đường chính trên hai bờ sông Hương: Đường Lê Lợi phía Nam và đường Trần Hưng Đạo phía Bắc. Một bên nhộn nhịp hàng hóa, một bên thanh lịch hiền hòa. Những tà áo dài vẫn làm đẹp cho cả hai.
Buổi sớm trên đường Lê Lợi, nữ sinh đến trường như bầy thiên nga rộn ràng trở về quê hương mỗi tiết xuân về. Đường phố trở nên trinh bạch biết bao.
"Luông ơi, Luông biết không, mình bỗng buồn khi nghĩ ra cảnh trong óc Luông chống gậy lọc cọc đi trên đường phố Huế, phải chứng kiến cả mặt trái của xã hội Huế bây giờ. Trước Phu Văn Lâu xưa đã chôn ở đó một tấm bia đá, hay gọi là cột đá cũng được, trên đó khắc hai chữ: Hạ Mã. Nghĩa là dù bậc mũ cao áo dài được phép nước cho cưỡi ngựa, đến đó cũng phải xuống ngựa, vì đó là nơi nghiêm trang ngay mặt tiền cột cờ, bây giờ đêm đêm ở đó, khách làng chơi đón khách công nhiên, làm tình ngang nhiên bên gốc cây bãi cỏ. Công viên Thương Bạc nhan nhãn những người đứng đợi mời khách xuống đò. Chưa hết những con đò xưa Nguyễn Bính ghi lại trong thơ câu: "Con sông không rộng mà dài, con đò không chở những người chính chuyên". Công viên Đài Tưởng niệm ngay trước mặt ủy ban tỉnh, Trường Quốc Học, trường Hai Bà Trưng, áo quần mùng màn của khách thập phương lang thang vô gia cư cứ phơi đầy trên các lùm cây công viên giống như ở một trại tị nạn ô hợp vậy. Những ngày mưa gió, họ túm tụm dưới một mảnh che ni lông, vừa thảm hại, vừa đau lòng. Còn công viên mang tên 3-2, đêm đêm Luông sẽ gặp ở đó những tà áo dài, những nón che nghiêng của các cô gái trẻ trung, không phải đứng chờ người yêu. Không phải chờ đò, đợi bạn, mà đứng đợi những gã đàn ông nhiều tiền khát dục.
Luông ơi, có lần mình đứng với người bạn trước cổng nhà khách 2 Lê Lợi, có tay xích lô đến mồi chài: "17, 18 tuổi thôi các chú, ngon lắm. Đừng để phí của trời; Tôi dẫn các chú đi nghe!".
Ở Huế có một người phản ứng nạn mãi dâm kịch liệt, chị như dị ứng ngay cả ngôn từ ấy. Đó là Kim Bội, chủ tịch Hội phụ nữ thành phố Huế, vừa trúng cử đại biểu quốc hội khóa này. Mình định gặp Kim Bội để hỏi, với tư cách ở những vị trí quan trọng ấy, liệu Kim Bội để cảnh tượng đó trôi xuôi hay sẽ làm gì?
Phải chứng kiến những cảnh ấy, chắc Luông sẽ thấy đau bởi lý do một cẳng chân bị mất".
Nhận được thư tôi, chắc Luông sẽ hết sức bàng hoàng, lúng túng về tà áo trắng trong tâm tưởng mình. Biết làm sao được, với bạn bè không thể nói dối nhau. Ước mơ xưa của Tố Hữu "Thơm như hương nhụy hoa lài, sạch như nước suối ban mai giữa rừng", vẫn đang còn là mơ ước, dù từ khi "Tiếng hát sông Hương" của anh ra đời đến nay đã 50 năm trời.
"Luông ơi, đừng buồn nhé! Luật thanh lọc của tự nhiên bao giờ cũng tuyệt diệu. Như ở Huế chỉ có ba mùa thôi, nắng gắt gao, mưa da diết, và mùa xuân thì dịu dàng. Mùa xuân bao giờ cũng về, để cho dù con người có biết bao nhiêu chao đảo, cũng tĩnh tâm lại, Huế đã tĩnh tâm lại rồi, như đôi bờ sông Hương đã vào quy hoạch sắp xếp. Chỉ riêng một việc này Luông ạ, có 108 hộ đang sống phía bờ thành của công viên Phú Xuân, tỉnh sẽ cấp 2 tỷ 4 để chuyển số hộ này đi, để cho khách du lịch đi trên đường Trần Hưng Đạo vừa được ngắm sông Hương dịu dàng lại vừa được thấy tường thành uy nghi cổ kính.
Chưa Tết, mấy hôm nay Huế đã vào xuân, mai vàng đưa từ rừng mai Tứ Tây, Ngũ Tây về bán xếp hàng dài cả cây số bên hè phố. Các chủ vườn hoa đang chở hoa từ nhà đến dự hội hoa xuân. Năm nay hội hoa xuân không nở ở Thương Bạc mà chuyển lên Phu Văn Lâu. Phố xá như kéo dài ra, đường đi như hẹp lại. Người chen vai sát cánh bên người, mình chỉ ước ao trong dòng người ấy, một lúc nào đó có Luông. Để Luông tận mắt thấy Huế, để khỏi nhớ thương khắc khoải mỗi độ xuân về. Biết đâu tiếng nạng gỗ lộc cộc của Luông sẽ tạo thêm chiều sâu cho Huế bây giờ".
N.K.B
(TCSH53/01&2-1993)
-------------------------
(*) Bác Đô: Bí danh Huế trong kháng chiến chống Mỹ.
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.