Chân dung thi hào Tagore
[if gte mso 9]>
Frederik van Eeden là một bác sỹ trẻ chuyên ngành tâm thần học song cũng sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc trong những năm 1880-1890. Ông yêu thiên nhiên, thi ca và là người cực kỳ hâm mộ Rabindranath Tagore. Diễm phúc cho ông, năm 1920, ông được gặp đại thi hào khi Tagore viếng thăm Hà Lan. Van Eeden đã viết trong nhật ký về kỷ niệm đẹp đẽ đó: “Chủ Nhật 19 Tháng 9. Tôi đã gặp Tagore. Tôi chờ đợi ông ở nhà ga đường sắt. Điều đầu tiên tôi nhận ra ông là mái tóc xám phía bên trong toa tàu. Và có vẻ ông cũng nhận ra tôi. Ông mặc bộ quần áo xám, choàng chiếc áo khoác xanh và đội chiếc mũ đen. Giọng nói của ông mềm mại, cử chỉ chăm chú lắng nghe khiến tôi cảm nhận đang có một cái gì đó lây lan trong người. Đó chính là sự ảnh hưởng từ ông, với khí chất mạnh mẽ tinh khiết và thanh thản lạ lùng. Như thể bao quanh ông là một bầu không khí trong lành, tinh khôi và khỏe khoắn. Ở bên ông, tôi thấy mình chỉ như là một cậu bé đường phố, với chiếc quần tây quê kệch và đôi giày đỏ ngớ ngẩn. Người soát vé vốn quen biết tôi, hỏi: “Đây có phải là một người hết sức đặc biệt không?” - “Có”- tôi nói - “Đang hiện diện nơi đây một trí tuệ cao vọi”. Quả nhiên mọi người dành tình cảm tôn trọng cho Tagore. Ông quả như vầng mây sáng trên bầu trời”.
Nhiều người ở Hà Lan đã cất công chuyển ngữ và viết về Tagore. Năm 1920, tiến sĩ A. Klaver xuất bản hai cuốn sách về Tagore. Một cuốn sách ngắn về Tagore và các bạn đồng nghiệp của ông, mô tả tầm nhìn của họ và ý tưởng về tôn giáo phương Đông, và cuốn khác tiết lộ một số sự kiện liên quan đến sự giáo dục của Tagore và nền tảng tôn giáo. Tuy nhiên, cả hai đều viết vụng về, khô cứng rất khó đọc. Trước đó, Noto Soeroto viết tiểu sử Rabindranath Tagore vào năm 1916. Hen ry Borel (1869-1933), R. van Brakell Buys, Chitra Gajadin, B. Dhawale, Henriette Roland Holst, Titia Jelgersma... cũng đã lần lượt dịch Tagore. Về sau, năm 1984, một nhà văn người Bỉ tên là Wilfred Gepts cũng công bố bản dịch mới và năm 2000, nhà văn Bỉ Jan Gysen cũng đã dịch nó. Bản dịch đầu tiên của Gitanjali thực hiện bởi Frederik van Eeden được chuyển ngữ bằng ngôn ngữ Hà Lan cổ xưa và đó là lý do nhiều người khác sau này đã dịch Gitanjali theo phong cách riêng của họ. Tuy nhiên, nhiều trong số các bản dịch thơ Tagore đều tỏ ra không gần với bản gốc. Trở lại năm 1920, khi Tagore sang thăm Hà Lan, ông cũng đã gặp ông A.A. Bake, một chuyên gia âm nhạc Ấn Độ. Bake sau đó cũng đã dịch Tagore. Năm 1930, Bake cũng gặp lại Tagore khi nghiên cứu âm nhạc Ấn Độ tại Đại học Visvabharati và bắt đầu phổ biến âm nhạc của Tagore. Điều này dẫn đến cuộc triển lãm tại The Musee Guimet ở Paris. Năm 1958, R. van Brakell Buys, Cornelia Bake - Timmers và Tarapada Mukherji xuất bản một bộ sưu tập các tác phẩm của Tagore. Năm 1961 một phiên bản đặc biệt mang tên Tagore 1861-1961 đã được xuất bản do Đại sứ quán Ấn Độ tại Hà Lan ấn hành để tưởng nhớ Tagore. Các cuốn sách gần đây về Tagore là: Tagore và di chúc do Indu Dutt dịch năm 1989, Thơ Tagore tuyển chọn do Koen Stassijns và Ivo van Strijten biên soạn trên cơ sở các bài thơ dịch chọn lọc của William Radice (1985), của Dyson Kushari Ketaki (1991)...
“09 Tháng Tám 1913 Thưa bạn. Tôi đang thu xếp để xuất bản cuốn sách tiếp theo gom từ các bài thơ và bài giảng của tôi. Điều này ám ảnh tôi lúc đang ở Anh. Tôi có một mong muốn lớn là đi du lịch qua các nước lục địa và thực hiện các chuyến thăm qua những vùng tôi đã đọc qua sách vở. Nhưng tôi không chắc bao giờ có thể thực hiện. Với tôi, đi du lịch sang nước của bạn là quá xa xỉ so với khả năng tài chính của tôi. Hãy tin tôi, bạn của tôi ạ, trái tim tôi đang bay ra ngoài để đến với bạn, nhưng tôi đã im lặng. Tôi đã nói chuyện với bạn bằng thứ ngôn ngữ không chỉ của riêng tôi. Điều tốt nhất mà tôi có thể có trong tâm hồn tôi, là đưa tất cả âm vọng của ngôn ngữ vào trong câu hát. Nhưng tôi cũng không thể nói rằng tôi đã làm nên chúng, mà chúng đã tự đi ra khỏi chính nó. Các ngôn từ của tôi đã tự phô bày vẻ đẹp và vượt ra ngoài tầm kiểm soát của tôi. Tôi thường nghĩ và cảm thấy rằng tôi giống như một cây sáo - không thể dùng cây sáo để nói chuyện, nhưng có thể dùng nó để tấu lên những giai điệu. Tôi chắc chắn rằng bạn đã nhìn thấy tôi trong cuốn sách của tôi, và bản thân tôi khó đáp ứng khả năng xuyến thấu của bạn. Tôi như ngọn đèn trong bóng tối, chỉ có ngọn lửa là cất lên những ngôn ngữ. Tôi biết tôi đã không đáp ứng yêu cầu của nhiều bạn bè, nhưng tôi luôn nghĩ đến họ với lòng biết ơn và tình yêu của tôi qua những câu thơ hàng ngày tôi viết. Người bạn rất chân thành. Rabindranath Tagore”. ... “Shanti Niketan - Bolpur - 12 Tháng 12, 1913 Bạn thân mến. Tôi nghĩ phải dành thời gian để gửi thư cho bạn mặc dù tôi đang khoác trên mình một danh dự đột ngột đã rơi vào tôi. Tôi biết mình chưa từng trải qua thời kỳ nào như thế này và nó đang không cho tôi một khoảnh khắc yên bình nào. Tôi đang bay bổng và cũng đang khao khát để có thể trở lại sự yên bình vốn có của tôi. Việc không tiếp xúc thế giới bên ngoài hiện nay của tôi là không hợp lý bởi đám đông hiếu kỳ đang khuấy động xung quanh, buộc tôi phải có những hành vi tương ứng. Tuy nhiên tôi không thể phủ nhận rằng việc nhận được giải thưởng Nobel là một điều tuyệt vời. Đây là cái bắt tay cảm thông của phương Đông và phương Tây trên khắp mọi nơi, như thể đã bắt đầu tuyên bố về sự đồng nhất của nhân loại. Tôi đang háo hức chờ đợi bản dịch của bạn, của Gitanjali mặc dù tôi đã không có thời gian để đọc văn bản của bạn. Với tình yêu dành cho bạn Rabindranath Tagore ... “Shanti Niketan - Ngày 19 Tháng 11 năm 1919 Bạn tôi thân mến. Thật sự là niềm vui lớn khi được tin từ bạn sau một khoảng dài. Tôi thường nhớ về bạn và ấp ủ mong muốn được gặp bạn khi tôi tới thăm châu Âu. Nhưng tôi không biết khi nào sẽ đi được, vì tôi không thể rời Ấn Độ hiện nay khi nỗi đau khổ đã lan rộng trên tất cả các lục địa của trái đất. Kinh nghiệm cá nhân của tôi là châu Âu ngày nay, tồn tại những hạn chế như nó đang như thế, nhắc nhở chúng ta về một cậu bé không quên thời điểm tuýt còi cho khoa học nghiên cứu sản xuất một loại đồ chơi. Người nơi lục địa của ông có sức mạnh cầm nó để đàn áp, và đã có những người chỉ có thể chịu đựng đau khổ mà không thể trả đũa. Các khẩu súng máy đang trở nên nghiêm trọng trên chiến trường, dù bên ngoài nó như thể một món đồ chơi thông minh và xấu xí. Các thắc mắc trở nên ngớ ngẩn khi hệ quả vô tội của khoa học lại có yếu tố hài hước dành cho những người được miễn dịch mạnh mẽ không còn nỗi xấu hổ. Chúng như một năng lượng dư thừa có đủ mọi lý do can thiệp tạo nên những trạng thái lo lắng. Chúng tôi không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy những người đàn ông, vô cùng tự hào về nguồn lực khoa học mới đạt được của mình, từ đó thiết lập cuộc khủng bố chống lại một đám đông gồm phụ nữ và trẻ em. Điều đó quá mức không tương xứng với sự cần thiết, nhưng oái ăm thay lại phù hợp với niềm tự hào của sự ghê sợ. Nó không phải là tinh thần thượng võ của châu Âu đã từng làm nên huyền thoại, nhưng dĩ nhiên phải có một nguyên nhân cho sự suy giảm đạo đức ngày càng tăng như vậy của nhân loại. Trái tim tôi đã được trao cho bạn, bạn của tôi, vì tôi biết rằng bạn là một trong những người ở châu Âu có nhiệm vụ cao cả là tìm cách loại bỏ nguyên nhân đau đớn kia tận gốc. Của bạn, Rabindranath Tagore ... “Shantiniketan - 01 Tháng 2 1920 Bạn thân mến. Bạn được quyền dịch và xuất bản bất kỳ phần nào các bức thư của tôi mà bạn thích. Tôi gửi cho bạn qua thư này một số tờ rơi, một trong số đó tôi đã viết khi tâm trí của tôi đã bị phân tâm với những gì đã xảy ra khi tôi ở Ấn Độ. Tôi chìm vào cảm giác tuyệt vọng tột cùng khi nhận ra châu Âu đang mang lại tai họa rất lớn cho phần còn lại của thế giới. Nó đang sử dụng mọi nguồn lực của khoa học để xúc phạm đến toàn thể nhân loại. Cậy vào trí tuệ của mình là trí tuệ của khoa học chứ không phải của tâm hồn, nó cho rằng chân lý tối thượng chỉ là một. Tất cả những việc làm của châu Âu và thói quen xấc xược của nó chắc chắn sẽ có ngày sự phẫn nộ sẽ trở lại phang vào chính bản thân nó. Gần đây, một món quà đã đến với chúng ta từ Anh trong hình dạng của dự luật cải cách với sự hứa hẹn của Chính phủ. Một dự luật không thể là món quà trừ khi trái tim cho là có, do đó, miễn là tâm lý của chúng tôi không thay đổi, tất cả ân huệ sẽ biến thành lời nguyền, dẫn đến đạo đức giả và khuyến khích bàn tay trái ăn cắp lại những gì bàn tay phải đã cho. Của bạn, Rabindranath Tagore ...... Và sau đó, là những bức thư từ Eeden đến Tagorre. Nó cho thấy cuộc gặp năm 1920 làm Van Eeden thất vọng, nhưng không vì thế mà ông không dịch tuyệt tác của Tagore sang tiếng Hà Lan. Và sau đó, họ đã vượt qua nhiều trở lực để vẫn là bạn bè của nhau, dành cho nhau những tình cảm chân thành, nồng nhiệt... N.T.V (267/5-11) |
PHONG LÊ
Lý luận văn học mác xít xác định mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, xem văn học là tấm gương phản ánh đời sống; có đời sống mới có văn học.
NGUYỄN DƯ
Trong kho tàng thi ca Việt Nam chỉ thấy độc nhất một bài tả Hội Tây thời Pháp thuộc. Đó là bài Hội Tây của Nguyễn Khuyến.
THÁI PHAN VÀNG ANH
Trong tiểu thuyết Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà từng giễu kiểu người sính chức danh với cacvidit dài dằng dặc những nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học…, rằng: “nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là phố”.
PHAN NGỌC
Tôi kể dưới đây những điều mắt thấy tai nghe. Nó là bình thường đối với thế hệ những người 65 tuổi trở lên nhưng có thể có ích đối với các bạn trẻ mà giai đoạn này đã diễn ra trước khi các bạn ra đời. Cho phép tôi nói một vài sự kiện có tính chất tiểu sử mặc dầu tôi không xem việc kể chuyện gia đình là quan trọng.
PHAN ĐÌNH DŨNG
1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Tự Lực văn đoàn đã khởi sự hoạt động báo chí và văn chương của mình trong một thời điểm chứa đầy cơ hội và thách thức.
NGUYỄN MẠNH TIẾN
Sự tương hợp của những môtip truyện họ Hồng Bàng hay con rồng cháu tiên [viết tắt: rồng tiên] được chuẩn hóa như huyền thoại quốc gia bắt đầu từ trong truyền thống Ngoại kỷ của Toàn thư người Việt với vũ trụ luận Mường, Thái là một chủ đề thú vị.
Kỷ niệm 88 năm báo Phong hóa (7/1932 - 7/2020) và Tự Lực văn đoàn
PHẠM PHÚ PHONG
Nhất Linh là một kiểu mẫu hoàn hảo của trí thức Việt Nam, có thêm một cái gì rắn rỏi và thẳng thắn, rất hiếm có. (Sainteny)
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
(Gởi Hoàng Thị Hạnh)
MAURICE BLANCHOT
Có lẽ Kafka muốn tiêu hủy tác phẩm của mình, vì chúng dường như với nhà văn tất sẽ làm tăng lên sự hiểu nhầm chung.
HOÀNG NGỌC HIẾN
Trong tình hình phát triển hiện nay của lý luận (thuộc mọi lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) người làm công tác lý luận và phê bình văn học không thể không xem xét và xác định lại những khái niệm lý luận văn học, kể cả những khái niệm vẫn được xem là "cơ bản", "trung tâm", "cốt yếu"...
TRẦN NGỌC HIẾU
Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật...
THANH NGÂN
Kết cấu vừa là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm, vừa là phương tiện khái quát nghệ thuật. Cho nên, nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc khái quát và thể hiện tư tưởng - cảm xúc của tác phẩm văn học nói chung. Khi đánh giá kết cấu tác phẩm không phải chỉ xét nó dưới sự hài hòa, cân đối của nội dung.
MAI VĂN HOAN
Số người biết về Nguyễn Hành hiện nay rất ít. Tôi có hỏi một vài người quan tâm đến văn chương, các vị ấy đều không hề biết Nguyễn Hành là ai.
PAUL DE MAN
Phát hiện khá muộn màng về tác phẩm của Georg Lukács ở phương Tây và gần đây nhất, ở đất nước này, đã có xu hướng cô đặc lại quan niệm về sự chia rẽ rất sâu sắc giữa Lukács thời kỳ đầu phi Mác-xít và Lukács thời kỳ sau theo Mác-xít.
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
1. Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và cách mạng, văn học Việt Nam đương đại đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.
TRẦN ĐÌNH SỬ
Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.