Thơm lắm nghề hương

09:13 15/07/2022

TRANG THÙY
       Bút ký dự thi

Mạ tôi kể rằng, mạ theo học nghề hương từ lúc mới 10 tuổi ở chùa Tường Vân. Do thương mạ chăm chỉ chịu khó mà không biết chữ nên mạ vừa được dạy nghề làm hương vừa được Hòa thượng Thích Chơn Trí dạy cho biết chữ.

Ảnh: Duy Nhiên

Rồi mạ lấy ba, hai người chí thú làm ăn và tạo nên xưởng hương với hơn 20 người thợ làm trong nhà lúc mới chỉ chừng 25 tuổi. Ngày ấy, xưởng hương nhà tôi rộng lắm, và những bàn ngồi xe hương luôn chật kín lối đi. Không những làm hương bỏ mối, mạ còn buôn bán thêm nguyên liệu làm hương như keo, bột trầm, mạt cưa... cho những xưởng hương nhỏ lẻ. Sự nghiệp của ba mạ tôi phất lên như diều gặp gió. Còn nhớ, lúc cả làng chưa ai có chiếc tivi đen trắng hiệu Viettronic, chiếc cassette hai loa hai hộp băng hiệu Sony, chiếc Honda 67 thì ba mạ tôi đã sở hữu chúng. Thời gian đó, thỉnh thoảng tôi lén thấy ba mạ đếm tiền từ một chiếc bao cát mỗi lần ba chở hương về. Thời gạo châu củi quế đa phần nhiều gia đình ăn cơm độn sắn khoai thì ba tôi đã đóng một chiếc rương bằng gỗ đựng lúa gạo dự trữ cho đến mùa giáp hạt. Tôi vẫn nhớ hình ảnh ba từ chợ về cột sau xe con cá ngừ hoặc cá thu to lắm, rồi mạ tôi nấu một nồi lớn để đãi thợ và thỉnh thoảng mời hàng xóm lân cận. Tuy khấm khá nhưng ba mạ luôn coi tình làng nghĩa xóm rất quan trọng. Bằng chứng là chiếc xe Honda 67 đó đã từng chở rất nhiều người trong xóm đến nhà thương kịp thời, ai cần tiền lúc ngặt ba mạ giúp đỡ bằng cách cho mượn hoặc chia sẻ. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, ba mạ tôi hay nói với các con mình như thế!

Thương nhất là các chị em thợ làm hương cho nhà tôi. Tuổi chừng 12, 13 đã được ba mẹ gởi vào xưởng hương nhà tôi học nghề và làm thợ. Có người làm từ lúc nhỏ đến lúc thành thiếu nữ có người yêu rồi làm mẹ vẫn còn đến nhà tôi làm hương. Họ là người trong những vùng lân cận, và có người từ những ngôi làng xa xôi heo hút nên đi làm ban sáng ai cũng đem theo cơm để ở lại ăn trưa xong đến tối mịt mới về nhà. Thức ăn của họ thường rất đạm bạc, khi vài con cá mắm thính, khi cá nục kho với xơ mít hoặc khế chua phơi khô, ấy vậy mà tôi luôn thấy ngon chi lạ.

Làm hương là nghề làm ra sản phẩm phục vụ việc tín ngưỡng tâm linh nên ngay lúc mới bước vào nghề ba mạ tôi luôn nhắc nhở thợ rằng làm nghề này phải thật cẩn thận, sạch sẽ. Giếng Chùa là nơi cung cấp nước cho gia đình tôi làm nghề hương, cách nhà chừng 50m. Hàng ngày chúng tôi gánh bằng đôi thùng nhôm to và nặng lắm, mặc dù sát nhà có khe nước chảy tự nhiên vòng sang nhưng nhà tôi không dùng đến vì ngại không sạch. Hương đã làm ra thì tuyệt đối không được bước qua bước về, khi cân đo đong đếm thì phải nhớ đủ cân, đủ liều lượng, chữ tín phải đặt lên hàng đầu. Tôi thích cảm giác mỗi năm những ngày giáp tết, xưởng hương cúng tất niên. Sau khi cúng xong, gia đình và thợ thầy cùng nhau ăn uống vui vẻ, nhưng thích nhất là đến giờ phút cộng sổ, thông thường tháng cuối năm các chị ít khi tính sổ lắt nhắt mà hay dồn một lần đến khi tất niên lấy nhiều để được việc hơn. Năm nào cũng vậy, ngoài tiền công ra bao giờ ba mạ tôi cũng tặng các cô thợ thêm ít tiền gọi là tiêu tết, còn biếu thêm ít mứt bánh, trầm hương để ba ngày tết nhà ai cũng thơm mùi hương trầm. Mỗi lần như thế, lòng tôi luôn dâng một cảm xúc thật khó tả. Sau một năm vất vả, giờ đây các chị có thêm một số tiền để rủ nhau đi chợ sắm sửa, người mua áo quần mới, người tính mua mứt bánh, người lẳng lặng đem số tiền ấy về nhà để cùng gia đình chăm lo ba ngày tết, lo cho những đứa em thơ bộ quần áo mới, chiếc áo dài cho mạ, đôi giày cho ba... Đêm ba mươi tết, bên mâm lễ cúng giao thừa bao giờ mạ tôi cũng xông một lư trầm thơm nghi ngút. Tiếng pháo nhà ai vang rền, hòa trong làn mưa xuân lâm thâm, tiếng mạ tôi rì rầm khấn vái. Hương trầm nhẹ thơm trong không gian, nụ hoàng mai khẽ cựa mình đón tân xuân, chị em tôi náo nức chờ đợi phút giây được ba mạ lì xì sáng sớm ngày mồng một. Vẫn một mùi trầm tỏa thơm khắp không gian khi hương trầm được mạ tôi chăm chút trên bàn thờ gia tiên.

Nhưng rồi con đường sự nghiệp của ba mạ tôi cũng thăng trầm theo làn khói trầm hương mỏng manh vấn vít. Tuy nghề hương là sản xuất ra một sản phẩm thiêng liêng thờ cúng; nhưng một mình ba mạ không thể chống lại thời thế, thiên tai, thua lỗ và cả hệ luỵ từ nhiều việc do hồi ấy thông tin không được cập nhật nhanh như bây giờ, thậm chí là bị người ta giựt nợ. Vậy là chuỗi ngày êm đềm sung túc của gia đình dần dần rời xa, chị em tôi bắt đầu làm quen với những bữa cơm đạm bạc thiếu vắng thịt cá, những vất vả truân chuyên hiện trên nét mặt ba mạ, nhất là những tháng mưa lạnh tràn về. Còn nhớ trận lũ lịch sử năm 1985, sau một đêm mưa to gió lớn mạ nước mắt lưng tròng, ba hốc hác phờ phạc nhìn theo những bao bột trầm, những bó hương nổi lềnh bềnh trong dòng nước bạc chỉ còn trơ những que tăm. Ba mạ khóc, chúng tôi khóc, những người thợ làm hương khóc, nước mắt hòa lẫn nước mưa, dầm mình trong dòng nước đục ngầu cố vớt vát lại những gì còn có thể. Từ đó, chúng tôi một buổi đi học, còn một buổi phụ ba mạ se hương, cuộc sống trôi qua trong lo âu thiếu hụt. Gia đình tôi có lúc phải trồng trọt, nuôi heo gà bên cạnh việc duy trì nghề làm hương mặc dù khá chật vật. 

Thăng trầm từ nghề làm hương của ba mạ đã dạy cho tôi rất nhiều điều, với tình thương yêu vô bờ bến của ba mạ chị em tôi đã lớn lên trong đoàn kết thương yêu. Chúng tôi biết nhường nhịn nhau từ những con cá kho mặn, tô nước ruốc làm canh, và câu “đói cho sạch rách cho thơm” luôn mang theo làm hành trang đến bây giờ. Có lẽ đó là một trong những điều chị em tôi tự hào nhất mỗi khi ngồi lại cùng nhau, nhắc lại những vui buồn nghề làm hương một thuở. Cuối cùng gia đình tôi cũng từ giã nghề làm hương đầy vất vả sau hơn hai mươi năm lăn lộn. Cái nghề đã nuôi chị em tôi từ khi mới lọt lòng, cái nghề đã đưa tên tuổi ba mạ tôi thơm cùng với những người trong nghề cùng thời gắn liền với xưởng hương làng Hạ.

Mới đó mà cũng đã gần ba mươi năm gia đình tôi từ giã nghề làm hương - nghề mà một cô bạn của tôi xưa nhà cũng làm hương đã nói: “Cái nghề thanh cao mà tội nghiệp!” Hôm nay lòng nhớ quay quắt, tôi ngược lên làng hương Thủy Xuân, mong tìm lại chút dư hương ngày cũ. Khác với mong đợi của tôi về những xưởng hương với những bàn se năm nào, với những cô thợ bàn tay thoăn thoắt nhào bột, se hương. Giờ đây thay vì phải ngồi se thì đã có máy se, người thợ chỉ cần đút tăm vào máy là đã nhanh chóng ra một cây hương. Với cách làm như vậy thì sản lượng hương sẽ tăng lên và đều cây hơn xưa, người thợ làm hương đỡ nhọc nhằn. Huế là thành phố du lịch nên nghề hương theo xu hướng phát triển và hội nhập cũng có nhiều sự thay đổi bằng những cách tiếp cận riêng của mình. Con đường Huyền Trân Công Chúa với những cửa hàng trưng bày rất nhiều hương, đặc biệt những bó tăm sặc sỡ xanh đỏ tím vàng xòe ra và xếp thành những bông hoa trông rất bắt mắt. Một điều lý thú nữa là bên cạnh việc làm và bán hương trầm những xưởng hương còn có dịch vụ cho thuê áo dài chụp ảnh phục vụ một số khách du lịch trong và ngoài nước check-in, tham quan và trải nghiệm. Hôm nay tôi lên nhưng không mang áo dài mà chỉ đơn giản là một bộ đồ bộ giản dị. Tôi muốn được gần gũi với những cô thợ làm hương như những ngày thơ ấu năm nào. Tôi muốn tìm lại chính tôi, cô bé nửa buổi đi học, nửa buổi miệt mài ngồi se hương giúp ba mạ.

Lòng bồi hồi tôi mong tìm được một hình dáng quen thuộc, một đôi bàn tay nhuộm phẩm hồng chăm chỉ. Và thật không ngờ tôi vào đúng ngay xưởng hương của chị Nở, một trong những người thợ làm hương giỏi của gia đình tôi năm xưa. Chị em gặp nhau mừng rỡ, cùng nhau ôn lại chuyện xưa mà lòng rưng rưng như vừa mới hôm qua. Chị vẫn nụ cười chất phác thuần hậu, nhìn tôi lăng xăng với những bao keo, bột trầm, rờ rẫm từng cây tăm, cầm hương đổ bông ra phơi. Những bó hương xòe ra thành hình như một bông hoa, vừa nhanh khô vừa đẹp mắt. Tôi làm tất cả những công việc ấy một cách thuần thục, đó là những phút giây tôi thực sự trở về với nghề hương, chìm đắm trong những cảm xúc được làm cô thợ làm hương cần mẫn năm nào. Bao kỷ niệm ùa về cùng hình ảnh những người thợ thân yêu ngày ấy, miệt mài bên bàn se hương dù vất vả nhưng rất đáng yêu. Những gương mặt thanh xuân ửng hồng dưới ánh nắng ban mai, những lưng áo đẫm mồ hôi vẫn vừa làm vừa ca hát, chuyện trò ríu rít. Mẹ tôi cần mẫn đong đếm bên chén trầm xông nghi ngút khói thơm, ngoài sân những bông hương và sạp hương khô dòn đang đợi giờ thu gom lại.

Tôi không ngờ bao nhiêu năm rồi gặp lại, chị Nở vẫn còn theo đuổi nghề hương, và đến giờ con dâu chị là bé Út cũng nối theo nghề mẹ chồng; cô gái có nụ cười rất xinh tươi giờ đây là hình ảnh của chị ngày xưa, chăm chỉ và duyên dáng. Ngày đó, chị vào nhà tôi học nghề khi mới 15 tuổi, rất nhút nhát và sợ sâu. Có lần một con sâu bò vào nia hương chị đang làm, mặt chị tái xanh, tay chân run lẩy bẩy rồi ngất xỉu. Cả xưởng hương có một phen kinh hoảng. Lòng tôi chợt chùng xuống, ngỡ ngàng khi chị tâm sự nghề hương giờ cũng chẳng khấm khá là mấy. Không lời lãi bao nhiêu vì giờ đây có máy nên nhiều người làm, từ đó giá cả cạnh tranh, thêm phần các nơi thu mua họ gác nợ rất nhiều. Nhưng nghề hương đã gắn bó với chị từ thời thiếu nữ, nó như là một cái duyên, cái nghiệp vận vào chị rồi, khó đành lòng mà xa. Bâng khuâng, tôi nhìn xuống đôi bàn tay hồng vì cầm tăm nhuộm phẩm đỏ nãy giờ, chợt thương những cây hương yếu ớt, thương cái nghề thơm hương thanh cao mà vất vả vô cùng.

Rời làng hương, dọc đường tưởng chừng mùi nhang trầm, mùi quế tùng phảng phất đâu đây trong gió, bỗng nhớ thương ngày xưa biết bao. Nghề hương ơi, thương lắm nghề làm thơm xứ Thần Kinh! Giá mà đến bây giờ gia đình tôi vẫn còn giữ nghề, cho dù vẫn còn những khó khăn vất vả nhưng đó không đơn thuần là nghề tạo dựng kinh tế, mà là cả một quá trình hình thành nên nếp sống thanh bạch, thiện lương. Trên hết, với người dân xứ Huế, một xứ sở của chùa chiền, nghề hương còn mang một sắc thái văn hóa với loại hương trầm trang nhã. “Nghề hương đã như máu thịt gắn liền với chị rồi, dù vất vả nhưng một ngày không se hương, không được nghe mùi trầm là nhớ lắm em ơi!” Lời tâm sự của người thợ năm xưa như một làn khói lam chậm mãi vương vấn theo tôi dọc đường về.

T.T
(TCSH45SDB/06-2022)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).