Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Hành trang vào đời
Tôi chỉ muốn nói đến thơ Tố Hữu thời kỳ này, 1954 - 1975. “Từ ấy” (1937 - 1946) chúng tôi chưa sinh, cũng không được chứng kiến cảnh lầm than nô lệ của "Hai đứa bé", "Đi đi em", "Vú em", "Tiếng hát sông Hương"… nhưng chúng tôi đã được biết đến “Việt Bắc” (1946 - 1954) dù còn chưa nhiều, nhưng cuối của “Việt Bắc” chúng tôi đã có "Ta đi tới", "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên", và nhất là “Việt Bắc” và “Gió lộng”… để làm hành trang vào đời.
Trong điều kiện đất nước còn nghèo sau cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ chống Pháp, bài học về Tổ quốc, bài học địa lý đầu đời của chúng tôi là "Ta đi tới". Hơn nửa thế kỷ đã qua nhưng những địa danh của đất nước vẫn in sâu đậm trong mỗi người của thế hệ chúng tôi: Ai đi Nam Bộ/ Tiền Giang, Hậu Giang/ Ai về thành phố/ Hồ Chí Minh/ Rực rỡ tên vàng/ Ai đi Nam, Ngãi, Bình Phú, Khánh Hòa/ (Quảng Nam ® Quảng Ngãi ® Bình Định ® Phú Yên)/ Ai vô Phan Rang, Phan Thiết/ Ai lên Tây Nguyên, Công Tum, Đắc Lắc/ Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung. Tôi dám chắc nhiều học sinh phổ thông trung học bây giờ khi được hỏi địa danh các tỉnh, thành phố Việt Nam sẽ không kể lại được như chúng tôi, bởi chúng tôi được học thơ Tố Hữu qua bài thơ "Ta đi tới".
Ngay trong bom đạn Mỹ tàn khốc, những ngày cuối chiến tranh, sắp đến ngày chiến thắng, chúng tôi vẫn nhớ nằm lòng câu thơ của Tố Hữu, như là nhắc nhở, lời tri ân về tình quân - dân như cá với nước: Mình về thành phố xa xôi/ Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng? (Việt Bắc).
"Sông có khúc người có lúc". Cuộc đời mỗi người ai cũng có khúc quanh, may mắn, hanh thông, vui vẻ nhưng cũng nhiều khi gặp bất trắc thất bại nhưng còn sống ai cũng cần hy vọng và niềm tin ở tương lai. Em ơi em mùa xuân đến rồi. Như đời ta, hôm nay dù có đầy đủ, hạnh phúc mãn nguyện thì ai dám bảo là cái hôm nay đang có không còn gì liên hệ với quá khứ, chắc chắn quá khứ của mọi người đâu chỉ có niềm vui. Dù đêm qua chút tuyết còn rơi. Nhưng là "mùa xuân đến rồi". Đời vẫn đẹp, vẫn vui và tràn trề hạnh phúc đang đến dù phải sống, phải cố gắng mà giành lấy, phải giữ gìn. Hỡi người chị trên đường quét tuyết/ Xuân đã đến rồi nắng ửng đôi môi (Em ơi Ba Lan).
Tiếng hát động viên, thôi thúc
Cuộc sống của chúng tôi, học tập, chiến đấu và lao động làm nên hạnh phúc. Thơ Tố Hữu là tiếng hát động viên, thôi thúc. Không khí lao động xây dựng đất nước cũng là tiếng gọi tinh thần là sức mạnh của mỗi thanh niên, mỗi cá nhân chúng tôi lên đường: Đi ta đi! Khai phá rừng hoang/ Hỏi núi non cao đâu sắt đâu vàng?/ Hỏi biển khơi xa đâu luồng cá chạy?/ Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy/ Hỏi đâu thác nhảy cho điện quay chiều?/ Hỡi những người trai những cô gái yêu/ Trên những đèo mây trên tâng núi đá/ Bàn tay ta làm nên tất cả/ Xuân đã đến rồi, hối hả tương lai (Bài ca mùa xuân 1961).
Những vần thơ này tăng thêm nghị lực, sức mạnh và tình cảm cho chúng tôi, ngay cả bây giờ chúng tôi không còn là "những chàng trai, cô gái yêu" nữa, nhưng vẫn sống, vẫn muốn đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam.
Chúng tôi từng với nhân dân cả nước cùng Tố Hữu khóc Bác ơi khi Người qua đời (1969). "Theo chân Bác", "Bác ơi" là những bài thơ hay nhất viết về Bác Hồ của Tố Hữu: Mong manh áo vải hồn muôn trượng/ Hơn tượng đồng phơi những lối mòn (Bác ơi).
Ba mươi năm chiến tranh ác liệt (1954 - 1975), Mỹ đã "cút", chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã "nhào". Đất nước thống nhất về một mối. Nhưng hy vọng và cả ảo tưởng tới những ngày thanh bình của đất nước trong tương lai đã bị thực tế phũ phàng chặn lại. Tố Hữu đã sớm, rất sớm cho chúng tôi một cách nhìn (cũng có thể ngoài ý muốn của ông). Đó là thế giới đảo điên. Chợ trời thật giả đâu chân lý/ Hàng hóa lương tâm vẫn thiếu thừa. Sau này ông viết: Thơ để cho đời, tro bón đất/ Sống là cho mà chết cũng là cho. Chúng tôi nhận được ở đó một lối sống ở đời. Mọi thứ danh vọng, chức tước, của cải trên đời... đều hão huyền, chỉ còn lại tình người là có ý nghĩa mà thôi…
Tôi không viết phê bình nghiên cứu thơ Tố Hữu. Nhưng thơ ông là một phần quan trọng hun đúc nên tâm hồn và cuộc sống tươi đẹp của chúng tôi. Cả một đời người, có ai ở thế hệ này không có trong mình vài câu thơ, vài bài thơ của Tố Hữu trên đường ra trận, trên đường lao động xây dựng Tổ quốc cho đến hôm nay?
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.