Thơ thiền Lý - Trần - nguồn tư duy minh triết

15:35 29/04/2009
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

Chấm dứt đêm trường ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài, công ấy do Ngô Vương Quyền. Nhưng chỉ ít năm sau, lại cát cứ, xâu xé, tranh giành. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, đến lượt cha con Đinh Tiên Hoàng bị ám hại. Cái chết của cha con ông tới nay vẫn còn là một nghi án.
Được ngôi nước, Lê Hoàn trong lòng vẫn chưa hết lo sợ. Đem nỗi lo ấy hỏi một bậc thiền sư lỗi lạc. Hẳn Lê Hoàn chỉ mong Đỗ Pháp Thuận chỉ cho ông giải pháp đối phó với các phe đối lập, đối phó với các sách động người Mường ở Thanh Hoá, người Nùng ở Cao Bằng, Lạng Sơn thường nổi dậy cướp phá, chống lại quan quân, và cả sự đe dọa của nhà Tống.

Thay vì "Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn", (tức là trả lời vào điều Lê Hoàn hỏi về tương lai của "ngôi nước"; ngôi nước ở đây chính là vị trí của nhà vua); thiền sư đọc luôn cho vua nghe một bài kệ, nhằm vào chủ đề vua hỏi.
            Quốc tộ như đằng lạc
            Nam thiên lý thái bình
            Vô tri cư điện các
            Xứ xứ tức đao binh
.
Nghĩa là:
            Ngôi nước như dây leo quấn quít
            Ở góc trời Nam (mở ra) cảnh thái bình
            (Dùng đường lối) vô vi nơi cung điện
            Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.


Nhà thiền học khuyên vua, muốn giữ được ngôi nước thì phải đoàn kết (vừa là đoàn kết trong nội bộ triều đình, vừa là đoàn kết dân tộc), như loài dây leo xoắn xuýt vào nhau thì mới có sức mạnh.

Hàng ngàn dặm đất của cõi trời Nam này, muốn có cảnh thái bình thịnh trị thì đường lối hành xử của nhà vua thể hiện nơi triều chính, phải là "đường lối vô vi". Làm được vậy, không cần phải đánh dẹp, tự nhiên nước sẽ an lạc. Vô vi mà Đỗ Pháp Thuận nói ở đây không có nghĩa là không hành động; nhà thiền nói "vô vi", thì nên hiểu đó là "vô ngã".

Tóm lại, bậc quốc sĩ, nhà thiền học lỗi lạc Đỗ Pháp Thuận đã khuyên hoàng đế Lê Hoàn khi ông hỏi về "ngôi nước" gồm các vấn đề mang tính chiến lược hơn là các biện pháp ứng phó mang tính chiến thuật.
1) Đoàn kết nội bộ, đoàn kết dân tộc xung quanh nhà vua.
2) Chính sách của nhà vua được thể hiện qua bộ máy cai trị, phải bộc lộ được sự trong sạch của triều đình, thì đó sẽ là nguồn gốc của thái bình, an lạc.

Có lẽ thiền sư Đỗ Pháp Thuận, là một trong những nhà Phật học đầu tiên ở nước ta, tạo tiền đề cho đạo gắn với đời, tham gia tích cực vào mọi mặt trong đời sống xã hội, cả về văn hoá và chính trị theo hướng tiến bộ. Và vì thế, gần nửa thiên niên kỷ bắt đầu từ nhà tiền Lê đến kết thúc triều đại nhà Trần, Phật giáo nước ta trở thành một nhân tố cấu thành trong việc xây dựng đất nước giầu, thịnh và vững mạnh.
Tinh thần đó được thể hiện trong hàng loạt thơ thiền kéo dài suốt từ Lê - Lý sang Trần.
Ta biết các thiền sư cuối Lê đầu Lý, đã có tác động tích cực thế nào vào việc làm nảy sinh một triều đại mới. Đó là vai trò của các thiền sư Đa Bảo, Khánh Văn, đặc biệt là sư Vạn Hạnh.

Đó cũng chính là sự vạn bất đắc dĩ các thiền sư buộc phải tham gia vào việc diệt trừ cái ác, tựa như sau này, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung hai lần thân làm tướng trực tiếp cầm quân đánh giặc Nguyên - Mông hồi cuối thế kỷ 13.
Khi thế nước đã bình ổn, các vị thiền sư lại chuyên tâm tu đạo.
Vạn Hạnh, cha đẻ của vương triều Lý, khi Lý Công Uẩn đã điều khiển triều chính vững vàng rồi, dường như ông không quan tâm đến các vấn đề chính trị nữa.
Các nhà trí thức Phật giáo cách ta gần 10 thế kỷ, có nhân sinh quan và vũ trụ quan dường như rất gần gũi với chúng ta ngày nay.
Thiền sư Vạn Hạnh khi sắp viên tịch, các đệ tử hỏi về Đạo, ông nói lời "kệ".
                        THỊ ĐỆ TỬ
            Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
            Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
            Nhâm vận thịnh suy vô bổ uý
            Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
                       
BẢO CÁC HỌC TRÒ
            Thân như bóng chớp, có rồi không
            Cây cối xuân tươi, thu não nùng
            Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
            Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
                                   
Ngô Tất Tố dịch

Vạn Hạnh chỉ cho đệ tử thấu hiểu quan niệm của nhà Phật là không chấp hữu, chẳng chấp vô. Ngay cái thân ta tưởng như là có, bỗng chốc đã là không, từ có đến không chỉ như một ánh chớp. Cả sự vận hành của thế giới sắc tướng kia, thịnh suy dời đổi có khác chi giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Do vậy, việc sống chết, thịnh suy là lẽ thường hằng.
Có một điều thú vị là trong các đời Lý - Trần, rất nhiều các bậc vua anh minh kiêm triết gia, kiêm thiền sư. Trường hợp Lý Phật Mã (Lý Thái Tông 1000 - 1054) không là một biệt lệ. Quan niệm của ông về thời gian và không gian, là một thứ không gian và thời gian rất gần gụi với thuyết tương đối ngày nay. Trong bài kệ truy tán vị tổ của dòng thiền Tì-ni-đa-lưu-chi, đã mất hơn 400 năm trước khi ông được sinh ra. Vậy mà ông viết cứ như một nhà vật lý học thời nay;
            ...
            Hạo hạo Lăng Già nguyệt
            Phân phân Bát Nhã liên
            Hà thì lân diện kiến
            Tương dữ thoại trùng huyền.

Dịch nghĩa:
            (Trăng Lăng Già vằng vặc
            Sen Bát Nhã thơm truyền
            Biết bao giờ gặp mặt
            Cùng nhau nói đạo huyền)
Dịch thơ:
            Lăng Già ngời bóng nguyệt
            Bát Nhã nức mùi sen
            Họp mặt chừng bao tá
            Cùng nhau bàn lẽ huyền.
                                   
Ngô Tất Tố dịch

Triết lý đời Lý qua thơ thiền, khẳng định cái khả biến và cái bất biến trong thế giới vi mô và vĩ mô.
Cái khả biến là thế giới hình tướng, sắc tướng; cái bất biến là đạo, là qui luật của tự nhiên.
Trong bài "Thị đệ tử Bản Tịch", tức là bảo cho học trò là Bản Tịch, thiền sư Đào Thuân Châu viết:
            Chân tính thường vô tính
            Hà tằng hữu sinh diệt
            Thân thị sinh diệt pháp
            Pháp tính vị tằng diệt
Dịch
            Chân tính luôn luôn không có tính
            Nó chưa từng có sinh diệt
            Thân người là hiện tượng sinh diệt
            Những pháp tính thì chưa từng sinh diệt

Do nhận thức về qui luật sinh tử cũng như các qui luật khác của tự nhiên có tính bản thể luận như vậy, nên con người thời đó có lối sống rất hồn nhiên, và hoà đồng. Thái độ sống rất chủ động và tích cực. Thường là làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và hoà hợp với thiên nhiên tạo vật.
Bài "Cáo tật thị chúng" của thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) ra đời gần một ngàn năm, mà sao ta có cảm giác như nó được viết vào thời nay.

Bốn câu đầu:
            Xuân khứ bách hoa lạc
            Xuân lai bách hoa khai
            Sự thực nhãn tiền quá
            Lão tòng đầu thượng lai
Nhằm nói về bốn núi, tức là bốn nỗi khổ của con người: sinh - lão - bệnh - tử thì ai cũng biết rồi. Bởi trong cuộc đời ai mà không trải qua bốn cảnh bất hạnh đó. Về bốn câu này thì nhiều thi nhân có thể viết được.
Nhưng hai câu cuối;
            Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
nhất định phải là một nhà thiền học uyên bác mới lập nổi tứ này, để bài thơ đạt tới giá trị vĩnh hằng, song nếu không phải là tài năng trác việt của một bậc thi thánh, thì không thể gói nổi cái tứ lớn lao kia trong 14 chữ, mà mỗi chữ đều như một viên kim cương lấp lánh.


Dịch thơ toàn bài:
            Xuân ruổi, trăm hoa rụng
            Xuân tới, trăm hoa cười
            Trước mắt, việc đi mãi
            Trên đầu, già đến rồi
            Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
            Đêm qua, sân trước một cành mai.
                                               
Ngô Tất Tố

Lại nữa, Trần Nhân Tông (1254 - 1308), khó ai mà tưởng tượng được một vị vua gần dân đến thế, một con người sống giữa cõi đời, sống giữa thiên nhiên và đã thực sự hoà vào với đời, hoà vào với thiên nhiên.
Đọc bài: "Thiên Trường vãn vọng", ta có cảm giác đích thị tác giả là một nông dân; hay chí ít là vị vua này sống không cách biệt với dân.
            Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên
            Bán vô, bán hữu, tịch dương biên
            Mục đồng địch lý ngưu qui tận
            Bạch lộ song song phi hạ điền
Dịch thơ
            Xóm trước, thôn sau nhạt khói lồng
            Bóng chiều nửa có nửa hư không
            Đi trong tiếng sáo trâu về hết
            Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
                                   
Ngô Tất Tố - Trần Lê Văn

Đọc tới bài "Nguyệt" tức "Trăng", ta cảm như tác giả là một hàn sĩ, hoặc một anh khoá nghèo nơi thôn dã đọc sách và thiếp ngủ đi lúc nào không biết.
Và cũng chẳng có ai săn sóc, hầu hạ:
            Bên song đèn rạng sách đầy giường,
            Khí lạnh, đêm thu, đượm giọt sương
            Thức giấc tiếng chày đã lặng ngắt
            Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương.
Con người thi sĩ ấy, nhà vua anh hùng ấy thoắt cái bỏ ngôi vua như người ta quẳng đi một đôi dép rách, để đi tu thiền.


(Phật hoàng Trần Nhân Tông)

Việc tu đạo của Trần Nhân Tông không hề có mảy may thoát ly thế gian, cầu tìm sự yên nhàn cho thân tâm. Nhà vua đi tìm chân lý; khác với các triết gia cùng thời ở phương Tây, họ tìm chân lý qua thế giới hiện tượng, tức là tìm trong cái động; trái lại Trần Nhân Tông tìm chân lý trong cái tĩnh, tìm chính trong bản thân mình, trong lòng mình.
Nhà vua khuyên mọi người hãy trong lặng soi tìm vào chính mình, lôi cho bằng được ông Phật (tức chân lý) ở trong tâm mình ra, chớ có vọng động mà cầu tìm tha lực. Đó chính là giáo lý hướng nội.

Trong "Cư trần lạc đạo" đệ ngũ hội, ngài viết:
            Bụt ở trong nhà
            Chẳng phải tìm xa
            Nhân khuy bản (quên bản gốc)
            Nên ta tìm Bụt
            Chỉn mới hay
            Chính Bụt là ta
Chính ông là một thiền sư, lại tuyên cáo không cần thiền.
            "Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
            Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
"
            (Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm
            Lặng lòng đối cảnh hỏi chi thiền)

Và việc tu đạo chẳng có gì là khó, cứ sống giữa đời một cách vui vẻ, tuỳ cái duyên nó đến, tu được thì tu. Và việc tu này cũng tự nhiên như người đói thì ăn, mệt thì ngủ, có chi phải nhiêu khê, phiền toái.
            "Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
            Cơ tắc thực hề, khốn tắc miên
"

Và Tuệ Trung thượng sĩ, bậc thầy của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân tông cũng chỉ cho người học đạo một quan điểm tu tập rất thoáng đãng:
            THỊ HỌC
            (Gợi bảo người học đạo)
            Học giả phân phân bất nại hà
            Đồ tương linh đích khổ tương ma
            Báo quân hữu ỷ tha môn hộ
            Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa

Dịch thơ:
            Hoa đạo mênh mang ai có hay
            Gạch đem mài gạch cực lắm thay
            Cửa người anh hãy thôi nương dựa
            Một áng xuân về hoa đó đây
                                   
Đỗ Văn Hỷ

Rõ ràng là thơ thiền cũng như thiền học các đời Lý-Trần là một minh chứng cho thấy con người thời đó sống tự tin, tự cường, sống hoà hợp với thiên nhiên, vua sống gần dân, vua với dân cùng chung sức chung lòng, chung lo việc xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước.

Vì sao Đại Việt thời đó có được các thành tựu ấy? Trước hết phải tự hào mà nói rằng, Đại Việt vào thời điểm lịch sử đó, xuất hiện nhiều bậc trí thức Phật giáo vừa là các nhà thiền học lỗi lạc, vừa là các bậc vua chúa anh minh. Những vị vua kiêm triết gia ấy cùng với các bậc trí tuệ đã xây dựng được một nền Việt Phật, một dòng thiền hướng nội, đã khai phóng được sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người, kết thành nội lực vô song của toàn dân tộc.

Chính vì tính hướng nội của thiền học được coi như một hệ tư tưởng chính thống của thời đại, nên các đời Lý-Trần đã triệt để khai thác được sức mạnh nội lực, tuyệt nhiên không dựa vào tha lực, vì vậy sức tự cường của dân tộc rất lớn.Và cũng vì vậy mà các đế quốc xâm lược hung hãn như Tống, như Nguyên-Mông đều lần lượt bị đánh bại.

Ở đây phải thừa nhận Phật giáo đã dựa vào sức mạnh của dân tộc để phát triển Đạo và xây dựng đất nước, dân tộc cũng dựa vào trí tuệ sáng suốt của học thuyết "tam giáo đồng nguyên" để vượt thoát. Như vậy, tất cả đều phục vụ cho một mục tiêu tối thượng là sự trường tồn của dân tộc. Nếu không, thì không thể lý giải được một xã hội ốm yếu, rệu rã, chia ly, nghèo đói vật vã thời Lê Long Đĩnh (hôn quân ngoạ triều), bỗng vụt lên thành một nhà nước cường thịnh thời Lý-Trần.

Ấy là nói về đại thể, chứ thực có thời gian đi kỹ vào thơ thiền Lý - Trần còn biết bao điều thú vị. Chẳng hạn đặc trưng của thơ thiền đời Lý là kết hợp rất nhuần nhuyễn "chất Phật" với "chất Lão-Trang". Vì thế giọng thơ nghe siêu thoát. Con người như sảng khoái hơn, tự tin hơn. Con người với thiên nhiên như là một chỉnh thể khó phân ly.

Song thơ thiền đời Trần, vẫn có điểm chung với thơ thiền đời Lý là lấy Phật làm trung tâm, tuy nhiên nó xa dần Lão Trang mà gần cận với Nho giáo hơn. Chính sự kết thân này ngày càng làm cho chất lung linh trong thơ giảm thiểu, chất thế tục ngày một gia tăng. Cũng bởi ảnh hưởng tính thực dụng của Nho chen vào. Sang cuối Trần, hậu Lê, và Nguyễn Nho thịnh hẳn, khiến Phật suy, và xã hội đi dần vào con đường phụ thuộc bởi các học thuyết chấp ngã của Nho gia.

Và một khi đã dựa vào tha lực, thì khó mà đưa đất nước vào quĩ đạo của sự phát triển. Mặc dù thi thoảng vẫn có những ông vua có tài như Lê Thánh Tông, Minh Mạng, song vẫn không cứu vãn được cả một thời đại đã đi vào "khu bản".

H.Q.H
(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.

  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.