Trần Vàng Sao - Ngô Minh - Phùng Tấn Đông - Nguyễn Văn Phương - Lê Ánh
"Cội và nguồn" - peinture - tapisserie của Bửu Chỉ 1987
TRẦN VÀNG SAO
Khoảng trống ngoài sân khấu
Sân khấu không còn ai hết
khán giả đã bỏ về nửa chừng
người kéo màn đắp tấm bố rách ngủ dưới chân cầu thang
tôi nhìn chung quanh trước mặt sau lưng
tôi đeo mặt nạ vẽ tôi là hề
rồi thổi kèn nhảy múa một mình tôi
này bài tuổi thơ tôi Nghi Xuân Tấn Lực những ngày lang thang không có cơm ăn
khóc không ra nước mắt
cha mẹ ơi chết đi bỏ con tồi tàn
tôi dốc cây kèn lên trời
tôi thổi cho hết hơi tôi cho tiếng tắt nghỉn đứt đoạn không đành
tôi cong người lại
tiếng kèn thở dốc ra
tôi làm con lợn lòi giận dữ
đâm đầu vào gốc cây vỡ nát óc không chết
tôi trợn mắt đứng sững
con lợn lòi không có răng nanh
khán giả vỗ tay la ó
tôi cười thật to
người nào thù ghét tôi lúc này sẽ nhảy lên sân khấu xỉ vả tôi ngu đần
còn tôi
tôi xin cất mặt nạ ra cúi chào mọi người thân mật
không có ai ở trong và ở ngoài sân khấu này
đêm có mùi cỏ khô và rơm ướt
trước mắt tôi khoảng trống tối tăm
người kéo màn động đậy hai chân dưới tấm bố rách
tôi thổi rống lên
bốc máu trong mắt
nghẹn cuống họng
tiếng tức tối oan ức thù ghét
những cái mặt ở hàng ghế đầu láng mỡ
những bữa ăn dư thừa cá thịt
những giọng nói dài nhọn như kim
da thịt tôi nổi ốc
tôi cúi xuống
la hét chưởi độc
tôi thổi một mình tôi
ti toe kèn lá chuối
này hỡi các con
tiếng cười trong miệng ăn khoai mắc nghẹn
con châu chấu sành nửa đêm kêu lách chách sau bức kỉnh dựng trên bàn thờ
tiếng la hét đuổi bắt nhau giữ cột đình ngoài chợ
ngón tay chỉ thẳng vào đứa đã chết ăn gian còn sống
tiếng khóc bị đánh đi chơi lâu kêu không về chùi nước mắt không kịp
tôi cuốn mình làm con sâu đo và nhăn mặt sợ hãi
(sợi tơ dài gió bay sợi tơ đứt)
người kéo màn còn ngủ như chết
sao băng trên trời
chung quanh tôi bóng tối và ếch nhái kêu
tôi bỗng đứng thẳng người ôm cây kèn trước ngực
tôi mở to hai mắt
đằng xa khoảng trống không không biết trời đất ở chỗ nào
tôi khóc
tôi khóc to như một đứa trẻ mất trí
phía sau sân khấu không có ai hết
tôi đưa kèn lên miệng và rống lên
con lợn lòi bị đâm ở cuống họng thở hộc
tôi xả hết hơi mình vào ống sắt
tiếng ré to
những mũi nhọn chọc sâu xuống ngực
này tôi thằng hề hôi hám đói rách
này những đứa con ghẻ sài đau ốm của tôi
này tôi thằng hề đói bụng làm trò cho mọi người coi chơi
trời hãy mưa hãy mưa cho to
mầy đói mà có chết được đâu
hề ơi
con lợn lòi vật vã thân thể
kêu thét từng cơn
tôi không thấy gì nữa
tôi la thật to
và bước ra ngoài sân khấu
tôi rớt hoài trong một vũng đen sâu
trời vẫn không mưa được cho mát
Vỹ Dạ, tháng 10 năm 1986
NGÔ MINH
Phát hiện
(cho con trai)
Con phát hiện cho ba sợi tóc bạc đầu tiên
khi tuổi bốn mươi mỉm cười ngoài ngõ
đặt sợi bạc lên trang thơ dang dở
nửa trang thơ ngày trai trẻ cuối cùng
Tuổi thơ ba ngắn dài nước mắt
đêm khóc cha biển vắng bàng hoàng
hoa xương rồng đỏ hoe mắt cát
tuổi học trò lối xóm rụng rơi
tuổi hai mươi nghe rừng thay lá
cơn đói sâu hơn hố của mài
câu thơ cho ngày mai chưa kịp viết
đã eo sèo cơm áo tuổi ba mươi
con ơi con nửa đời ba dông gió
còn chút tàn tro mỏng mảnh này đây !
ôi, con tôi vô tư như nắng
nâng trên tay phát hiện không lời
ngắm tay con nâng tuổi mình nhẹ bỗng
gió nhẹ phẩy chút tàn tro bay mất !
tiên cảm điều gì lớn hơn sự thật
đang trở về đậu cánh tay con
tôi bỗng nhận ra chân dung hạnh phúc
là bóng mình bé nhỏ đáy mắt con !
Việt Trì, 7-1987
PHÙNG TẤN ĐÔNG
Một cách nghĩ về bộ phim sám hối
(của Tenguiz Abuladze)
Đẩy một người chân chính vào nhà thương điên cái trò diễn không bao giờ cũ
Ketevan chị sinh ra trên một hành tinh đầy bất hạnh
Những bi kịch tác thành trong im lặng
Chúng có một thứ trật tự rất riêng
Luôn luôn đòi thao túng và xếp đặt trở lại
Những kẻ như Varlam chúng nó ghen nhiều thứ khác người
Như ghen với đôi mắt trẻ thơ vì mắt trẻ sáng hơn
Như ghen với trò chơi tuổi thơ vì trò chơi thật nhất
Chúng cũng biết trầm tư đầy uyên bác
Hát opéra và ngâm sonnet
Không ai sinh ra để mang sứ mệnh báo thù
Có lẽ nào như thế
Như Ketevan chị không thể lẫn vào đâu được
Trong đám đông cuồng tín
Đã đến lúc chị chỉ có thể nhân danh một điều duy nhất
Quyền lực của trái tim
Chị dựa vào đấy và vòng tay đợi
Đã đến lúc
Đất không thể lặng câm như đất
Và những nỗi đau không phủ bằng nước mắt
Tôi thèm nhét thêm một câu thơ vào hành lý
đựng quá nhiều đắng cay
Trên con đường số phận như chị
Tôi thèm dựng trong hồn mình một thánh đường
trên con đường tìm kiếm đức tin
Như chị
Tôi thèm dựng trong hồn mình một nghĩa trang
để xác tín nỗi đau để nhận dạng kẻ thù
Như chị
Tôi biết chị không muốn thế đâu, phải không
Ketevan, chỉ là một giấc mơ
Giấc mơ đòi được sống
Chỉ nói bằng im lặng
Nó là của chính anh, chính anh cần tẩy rửa(1)
Chính anh cần dọn mình để được phục sinh
từ đất
Lũ chúng ta từng thuộc lòng Shakespeare và say mê Pasternak
Chúng ta từng có rất nhiều thần tượng
Từng dốt nát và nông nổi
Từng có bao nhiêu thói quen, bao nhiêu bè bạn
Từng là kẻ đáng thương và đáng giận
Và có lẽ càng sinh ra trên một hành tinh bất hạnh
Vì mỗi một ngày
Chúng ta phải phán xử mình và phán xử nhau.
---------------
1) Ý của Berthol Brecht
NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
Thơ gởi bác xích lô Hà Nội
Đêm trăng ấy bác xích lô Hà Nội
Chở tôi thăm ba mươi sáu phố phường
Bác đâu ngờ khách cùng nghề như bác
Cũng đời xích lô dãi nắng dầm sương
Tuy bác ở cách tôi ngàn dặm
Nhưng gần nhau trong những nỗi trầm thăng
Bốn mùa chuyển nhịp cùng mưa nắng
Đời quay tròn theo ba bánh xe lăn
Có những lúc gác xe vào quán rượu
Mượn Lưu Linh đuổi hết nỗi nhọc nhằn
Rồi đón khách nơi đầu ga cuối phố
Ngày có, ngày không lặng lẽ qua dần
Bác tuy già nhưng sức còn dẻo dai
Còn chở khách vào ra năm cửa ô
Một mai đây khi tôi già như bác
Sẽ còn lại gì ngoài mấy trang thơ?
Những lúc về khuya còn ai thấy bác?
Người phu già lăn bóng dọc đường trăng
Bác chở tôi một lần rồi quên lãng
Nhưng riêng tôi chở bác suốt thời gian
10-10-1987
LÊ ÁNH
Dây tơ hồng
Dây tơ hồng xanh mát nhà ai
Rất vô tư nắng trời đổ lửa
Cây ươm tơ sắc màu chan chứa
Tôi đi qua đâu nỡ vô tình
Thoáng nụ cười cây thế mà xinh
Giữa cằn khô đất nồng lửa cháy
Nhà mái lá tìm hoài chẳng thấy
Mái ngói lô nhô rêu xám màu
Xe đi qua đường phố đi qua
Căn chòi nhỏ bà cụ già bán nước
Vài chiếc kẹo, dăm ba cái bánh
Không thiếu người lỡ bước trưa nay
Tôi đi đây như lạ, như say
Nào có ai thân quen để gọi
Giữa phố đông tìm hoài bối rối
Thèm làm sao tiếng nói bạn bè
Dây tơ hồng giăng trong nắng mai
Nhắc tới nhớ quê hương làm sao ấy
Nam với Bắc có xa nhau là mấy
Ngày tôi về sẽ kể bạn thơ nghe.
Hà Nội, 23-5-1987
(SH29/02-88)
Bãi cát nhàu muối mặnHoang dại một loài hoaAi đặt tên Cúc biểnMàu tím đỏ mượt mà
Em về với chị, quê xưaQuê em quê chị, bây giờ quê ai?Cách xa hút tháng năm dàiSao ngày trở lại lạnh gai cả người.
(Nhân lời kể của một người chơi chim)
Chị tôiphận gáiheo may về lơ lửng sáo diều ngânSông Bồ mười hai bếnbến nào nước đụcbến nào trong...
...Không hề có chia ly, không cả lời giã từ, chỉ phương ấy trongvô vọng của em, chợt giây khắc này bừng chói...
Gương mặt thánh thiệnSáng và buồn
Sinh 1962 ở Hà Nội, tốt nghiệp Đại học hàng hải tại Liên Xô (1986) và đã từng là thuyền trưởng Hải quân. Ngô Tự Lập đã xuất bản hơn chục đầu sách bao gồm thơ, truyện, tiểu luận và dịch thuật.Anh là hội viên Hội Nhà văn Việt .
Sinh năm 1949 tại Bình Lục - Hà . Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.Tác phẩm đã xuất bản: Dấu lặng - (Thơ) NXB Văn học 1976; Đêm thiếu nữ - (Thơ) NXB Văn học 1978. Ngoài ra Trần Lan Vinh còn có thơ in trong các tuyển tập khác.
Sinh 1946 tại Liên Minh, Vụ Bản, Nam ĐịnhCử nhân nghệ thuật - Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội - Hội viên Hội Mỹ Thuật Hà Nội.Tác phẩm: Trại Muộn (thơ) NXB Văn học 1995; Mảnh trời qua ô cửa - (thơ) NXB Văn học 1997.
Một tiếng thôi mà bao hàm cả cộng đồng dân tộc, cả xứ sở thân yêu với đồng lúa cánh cò, với núi non điệp trùng và rừng vàng biển bạc, những người vợ thương chồng tạo vóc dáng vọng phu.
(Gửi nhà thơ L.M.T)Em tìm trong lá một vầng trăng xaEm tìm trong cỏ bóng chiều vừa qua.
Đợi tắt mặt trờiĐêm không trăng ta lầm lũi bước sóng đôi với biểnXa khơi thăm thẳm màn đen
Tôi vấp ngã vào ban mai trong trẻoNước sông Hương xanh rười rượi tháng tưMưa đầu hạ, sấm chớp chừng vội vãCơn gió hoang lạ lẫm bước tôi về
LTS: Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, sinh 12 - 3 - 1946 tại Mộ Đức Quảng Ngãi. Tốt nghiệp khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội 1969, vào bộ đội, làm báo ở Đài tiếng nói VN, đi chiến trường bộ cuối năm 1970. Là phóng viên chiến trường, ở Ban binh vận R. Sau giải phóng về trại sáng tác Quân khu 5, sau đó giải ngũ, về Hội Văn nghệ Nghĩa Bình và Hội Văn nghệ Quảng Ngãi. Hội viên Hội nhà văn, ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Việt . Đã in hơn 10 tập thơ và trường ca. Hai lần nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt cho hai tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” và trường ca “Những ngọn sóng mặt trời”. Giờ vẫn làm thơ chơi và viết báo kiếm sống.
LTS: Trần Chấn Uy sinh năm 1957, tại Đức Thọ, Hà Tĩnh, hội viên Hội Nhà văn Việt . Anh là một nhà thơ trẻ đã có 5 tập thơ ra mắt bạn đọc. Trần Chấn Uy đi khắp nơi, say mê với cái mình đã chọn, diễn đạt nó với nhiều cung bậc. Tìm kiếm chân lý và cái đẹp để đưa vào thơ, với tấm lòng bao dung, nhân hậu, dưới góc độ nào, giọng thơ Trần Chấn Uy cũng chân chất, mộc mạc, nồng ấm. Nhà thơ Trần Chấn Uy hiện nay công tác ở Đài Truyền hình Khánh Hoà.
LTS: Dạy toán nhưng rất yêu thơ đó là điểm đặc biệt của con người Lê Quốc Hán. Lê Quốc Hán viết thơ nhiều. Thơ anh đã in hầu hết các báo ổ địa phương và trong nước. Thấm đẫm mồ hôi của người lao động, anh luôn nhìn cuộc đời với đôi mắt yêu thương, đầy trân trọng. Hồn hậu, mộc mạc, chân chất mà vẫn nói được cái mình gửi gắm không chút sáo cũ, âu đó cũng là điểm mạnh trong thơ Lê Quốc Hán.Lê Quốc Hán hiện nay là Tiến sĩ trường Đại học Sư phạm Vinh.
LTS: Sinh năm 1969 đã có 2 tập thơ riêng. Là một cây bút trẻ luôn có ý thức làm mới thơ. Tập thơ đầu tay “Dòng sông cháy” của chị vừa ra mắt bạn đọc đã nhận được giải thưởng văn học của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam 1997.Táo bạo, trăn trở cho cái mới. Khắt khe, đòi hỏi cao chính mình trong lao động nghệ thuật; Nguyễn Bảo Chân đã chọn cho mình một cách đi riêng trên con đường thơ ca. Với ngôn ngữ thơ hiện đại, với hình tượng thơ kỳ lạ - qua cảm xúc tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, Nguyễn Bảo Chân đã mang đến cho bạn đọc những bài thơ hay. Hiện nay Nguyễn Bảo Chân công tác ở Đài Truyền hình Việt - phụ trách chương trình “Tác phẩm và dư luận” trên sóng VTV3.
LTS: Sinh năm 1943 ở Hà Nội. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn là một cây bút nữ nổi tiếng. Với chất thơ dịu dàng, đằm thắm, chị đã đem đến cho thơ Việt một giọng riêng. Chị không tìm kiếm những tứ thơ lạ, mà làm lạ những tứ thơ tưởng như đã cũ. Với 6 tập thơ và 2 tập truyện thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn đã nhận được nhiều giải thưởng văn học. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn hiện nay là UVBCH Hội Nhà Văn Hà Nội và là chủ nhiệm câu lạc bộ nhà văn nữ Việt .
Giọng nói chỉ còn thoang thoảngđồng cỏ hoa vàng
Thiên niên kỷ mới vẫy ta sangkhốn nỗi quà xuân chưa sẵn sàng