Ảnh: Internet
XUÂN HOÀNG Đêm trở về Nuốt nhanh những chặng đường Bù thời gian để chậm, Con tàu thành vệt thẳng Lao nhanh về cố đô. Trăng mười bảy vừa nhô Lăn tăn vàng mặt phá Núi đá trắng mây mờ Lôi thôi bờm Bạch Mã Cầu Truồi qua nhanh quá Bỏ lại đằng sau lưng: Một làng tre óng ả Một dòng sông ngập ngừng Tiếp đó đã là Nong Rồi sân bay của Huế Những thao trường lặng lẽ Dưới chân đồi Tam Thai Trong vừng trăng lai láng Ga An Cựu chờ ai? Một ngọn đèn đứng lặng; Huế đây rồi, Huế ơi! Con tàu như lãnh đạm Lướt dài trên đường ray Mặc người sắp xuống Huế Ngắm hoài vừng trăng say. 6-84 NGUYỄN XUÂN THÂM Về thăm quê gặp đêm trăng Áo trăng tôi khoác đi chơi trăng Chị ấy hứa về kịp tối rằm Đêm đợi, trăng lên trên phố nhỏ Trà mi một đóa ướp sương đằm. Bước chậm trong trăng bước nhẹ êm Hơi thu chừng loáng ướt bên thềm Hàng Me lá rụng không nghe tiếng Từng mảnh bay vàng trên áo đêm. Ba mươi năm trở lại Hàng Me Trăng sáng mênh mông ngập lối về Ngõ cũ chẳng tìm ra được nữa Không tre không trúc sao sơn khê. Vườn trăng vắng vắng thoáng hương trầm Nhớ tiếng đàn trăng với điệu ngâm Gió của những mùa xa vắng cũ Trôi về còn chở chút hương thầm. Đi chơi trăng gặp bữa trăng ngời Mấy bận thăm quê được tối chơi Trong suốt đêm trăng như chẳng đáy Mình tôi đi gặp tuổi thơ tôi. Chị ấy không về trăng sáng thơm Thương ai hoa nở cuối vườn sương Tôi mang tưởng tượng mùi hương ấy Đi hết đêm mùa nơi cố hương. PHẠM NGỌC CẢNH Một tên làng Quảng Trị Qua rất nhiều tháng năm hết sáng bình yên lại chiều binh lửa lòng ta chốt giữ hai đầu cái tên làng ở giữa Ùa vào sâu niềm tưởng nhớ cái ta chưa để ý một lần cái không có trên bản đồ chiến sự ai hơi đâu mà chép thêm vào lịch sử lối rẽ vào làng in dấu chân mà chiều qua trong một thoáng phân thân đã chợt về nâng đỡ Mẹ chẳng cố tình bắt ta lưu giữ em không hề khuyên không bắt về dâng hương ngày giỗ kỵ một tên làng Quảng Trị suốt đời đâu dám quên Ở với ta lúc vui lúc buồn lúc suôn sả lúc cay đắng không đòi trả ơn mà nghĩa nặng không ràng buộc mà thân gần không giao đãi ngọt ngào mà lặng thấu làm vốn nuôi con, làm quà tặng cháu cái tên làng Quảng Trị ấy thôi một tên làng Quảng Trị đứng loi thoi dọc bấy nhiêu trận mạc trắng phau đồi cát bồi 1984 MAI NGUYÊN Mùa đã chín Bây giờ mùa đã chín Làng quê đã gặt rồi Những nong vàng đẹp đẽ Phơi đầy trên sân chơi Bây giờ mùa đã chín Làng dâu quả mọng tươi Thân cành em đeo chuỗi Ngọc hồng như mặt trời Bây giờ mùa đã chín Trăng thu chín rụng rơi Những hạt vàng lấp lánh Rải đầy trên sông trôi Bây giờ mùa đã chín Thơm ngát cả bờ môi Bây giờ mùa đã chín Mùa đã chín. Chín rồi Giấc mơ ngày hôm ấy Vẫn còn xanh, anh ơi! THẾ DŨNG Ký ức bất chợt Tuổi khăn đỏ trời xanh đầy đạn lửa Giấy học trò bom Mỹ xé thành than Tôi lên mười đất kéo còi báo động Mũ rơm tôi lũn cũn dọc đường làng Tôi chưa có, rừng đã vang vó ngựa Trăng Tây Sơn bùng nổ một trời xuân Thương cô Tấm chỉ vì mơ yếm đỏ Mà chết đi sống lại biết bao lần Tôi chưa có thì ba lô cỏ biếc Đã nắng sương từ thuở mẹ lên ngàn Mười tám tuổi vượt đèo thành Binh Nhất Câu thơ rừng hồi hộp với trăng non Mẹ cơm cà, áo vá, nước mưa trong Nhờ hàng xóm bát cơm ngày giáp hạt Tôi ăn suối ngủ rừng theo binh trạm Em như mơ như thực ở ngang trời Ai đã khóc bao lần hoa đào nở Những đứa con tuổi ngựa chẳng hay về! Trong lửa cháy thành tên mà xanh thắm Làng ơi làng: lâu chửa tắm sông quê Nụ cười này - kỷ niệm ở Ta Lê Tháng giêng ấy - đi cùng “Ba mười sáu” (1) Ký ức chảy miên man, mất người nhìn đau đáu Bạn chúng mình ngủ lại với Suối Mơ Nhớ giao thừa nước trắng với Pa Kô (2) Vách đá dựng sau lưng là Pắc Bó Mỗi tấm ảnh - khắc một thời quân ngũ Xin mẹ đừng thấp thỏm phía Hà Tuyên! 1984 ---------- 1. Sư đoàn 316 2. Những địa danh ở Trường Sơn: Ngầm Ta Lê - sông Pa Kô. HẢI VÂN Chim ri rí Ơi con chim ri rí Em bay về phương nao Sóng biển hát rì rào Vỗ vô bờ xao xuyến Lòng anh thương chim biển Chẳng sợ sóng bao giờ Chẳng sợ bão bao giờ (Biển rộng thêm ước mơ Mở triền miên khát vọng) Tiếng chim viền ngọn sóng Mắt anh nối trời xa Khi chim bay về biển Ngọn gió ai đưa đà Rồi đêm mơ nào đó Anh thấy chim trong nhà Anh hát lời chim biển Chim uống nguồn thi ca. Thuận An, tháng hạ 1978 HÀ ĐỨC HẠNH Câu chuyện trong hầm Có gì đâu, một bông hoa Nhỉnh hơn cúc áo trèo qua ngách hầm Giữa lưng đồi sỏi khô cằn Tôi ngồi đợi cánh hoa dần mở ra. Quen rừng đâu dễ biết hoa Không gai, không lá tên là chi đây? Đồi cằn thưa cánh chim bay Tiếng gà báo sáng rơi đầy thung xa. Đã lâu rồi thuộc như nhà Với bông hoa nhỏ thế mà xôn xao Rung rinh bốn cánh như chào Đặt bao tên, chả tên nào thấy ưa. Của riêng tôi, của riêng anh Của riêng tất cả ngồi quanh góc hầm Ngả bi đông nước chè rừng Chuyền tay điếu thuốc cuối cùng còn đây! Bao nhiêu phấp phổng riêng tây Ùa quanh cánh nhỏ, hầm đầy mông lung… Có gì đâu, một ngách hầm Với bông hoa nhỏ lên thăm bất ngờ. Phố Yên Xuân 1985 (12/4-85) |
Ngô Minh - Trần Dzạ Lữ
Lê Tấn Quỳnh - Lê Viết Xuân - Nguyễn Sĩ Cứ - Nguyễn Thị Phước
Nguyễn Hữu Hồng Minh - Nguyễn Thánh Ngã - Trần Thị Thu Huề - Nhất Lâm - Trần Tiễn Cao Đăng - Ngô Thiên Thu
Phan Huyền Thư - Hoàng Hưng - Trịnh Lữ - Inrasara - Trần Tuấn - Nguyễn Thanh Mừng
Phan Trung Thành - Mai Bá Ấn - Nguyễn Thị Phước - Hồng Thị Vinh
Sinh năm 1948 tại Bắc Ninh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.Nhiều năm sống và gắn bó với vùng Kinh Bắc. Tốt nghiệp khoá 2 Trường Viết văn Nguyễn Du (1983 - 1985). Hiện công tác tại báo Sức khoẻ và Đời sống (Bộ Y tế).
Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lê Hoàng Anh - Trần Hữu Lục - Lê Văn Ngăn - Vũ Thị Khương - Trần Phá Nhạc - Lê Anh Dũng
Lê Mỹ Ý - Nguyễn Lãm Thắng - Thuý Nga - Nguyễn Vĩnh Nguyên - Võ Tấn Cường - Đại Giang
Quê Thanh Hoá.* Thơ đã xuất bản:- Hồi ức chuồn chuồn (NXB Thanh niên 1995)- Thơ ký gửi (NXB Văn học 1998)* Sắp xuất bản: - Cho; - Thu về
Tôn Nữ Ngọc Hoa - Nguyễn Đức Đát - Võ Khánh Cừ - Ngân Vịnh
Vĩnh Nguyên - Trần Hoàng Phố - Nguyễn Trần Thái - Võ Phước - Đào Trung Việt - Nguyễn Chí Hoan
Ngô Đức Tiến - Phan Văn Từ - Huy Huyền - Võ Quê - Phạm Dạ Thuỷ - Ngô Đức Kiên - Mai phương
Nguyên Quân - Nguyễn Xuân Sang
Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Thị Tố Nga - Lê Mai
Nguyễn Văn Phương - Nguyễn Văn Vinh - Huỳnh Lê Nhật Tấn
Nguyễn Hữu Hồng Minh - Nguyễn Đăng Việt - Đỗ Hoàng - Nguyễn Vĩnh Nguyên
Hoàng Ngọc Châu - Võ Văn Luyến - Võ Văn Hoa
VŨ THỊ KHƯƠNG sinh năm 1953Quê quán: Hà Dương - Hà Trung - Thanh HoáHiện công tác tại: Uỷ ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn Thanh Hoá.Cử nhân báo chí.Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thanh HoáĐã có các tập thơ in riêng, in chung và in trong nhiều tuyển tập.
Từ Hoài Tấn - Đoàn Quỳnh Như - Thúy Liên - Lê Tất Sĩ - Trần Vạn Giã - Từ Nguyễn - Trần Hữu Dũng - Thái Hải - Nguyễn Man Kim - Thanh Tuyền - Hồng Vinh - Đào Duy Anh
Thúy Nga, Trần Tịnh Yên, Nguyễn Thị Thái, Văn Công Hùng, Lê Quốc Hán, Nhất Lâm, Nguyễn Trung Bình