Chùa Đá Trắng - Ảnh: tranxuanan-writer.net
TRẦN XUÂN AN Cuộc khởi binh nâu sồng 1898 tam quan, bình phong nứt khu bảo tháp gió lùa chùa cổ đồi Đá Trắng còn chăng dăm nét xưa? am nghĩa binh Võ Trứ vọng hoài vó ngựa khua gạch vôi sao quá mới dưới gốc thu trăm mùa tìm đâu thư tịch cũ qua lửa bão đạn mưa kí ức rêu bụi phủ chuyện sử đành phai thưa rộng cửa thiền xưa đón giúp vua lẫn không vua duy một điều: yêu nước là chung tấm lòng chùa tượng bồ tát từng lấp chuông đồng đau vết cưa Phật nguyên nụ cười Việt lung linh bóng nắng trưa. NGUYỄN ĐỨC PHÚ THỌ Ru mùa Trôi về từ những giấc mơ không rõ hình thù Trôi về trên tay đóa sen vườn thức muộn Thân thể tôi là bọt nước Đêm nằm sóng mắt có đuôi Hơi thở em rúc vào đâu? Hoa phụt cháy mặt người Mưa khất thực Giữa những nhành lân tinh đói Trôi về qua tim một búp tình nhoi nhói Trơ gầy như sen Và vô hình như sương Trên vành môi đêm đã nứt vỡ giọt buồn Thu đã cặn Mắt chờ đã cặn Chỉ có câu thơ về trong lấp lánh Ru mùa bốn phía hư không… VŨ KIM LIÊN Trăng ngã Từ ngày anh đi Ba gian nhà rộng dài hun hút Gió cứ thổi đêm đêm côi cút Trăng vô tình giãi trắng những tàu cau Khắc khoải em trong bao nỗi lo âu Tất bật ngày để đêm qua hờ hững Giá như vô hồn Giá như nghễnh ngãng... Còn hơn cay xè một sự thật vắng hoang Gió thoảng xa vời mà rèm cửa đã run lên Trăng bước hụt ngã về phương say đắm. 22h20’ đêm 11/10/2010 ĐỨC SƠN Khoảng trống Không là kỷ vật Là khoảng trống với cơn mưa dầm Tôi tự tại trống không Sự pha chế hưng phấn và giảm tốc lực Tới cân bằng Tĩnh lặng Như lọ pha lê cắm đầy hoa bai by Như cầu nguyện, đợm màu vang trắng Trắng thơm, chỉ cần trái tim nóng Trái tim có khoảng trống tự do Mãi mãi Khoảng trống công kênh Xa vời và gần gũi Để dành cho tôi Sự thiện chí mãi mãi thi vị Về đây với rừng Gió đùa cánh rừng và vạt cỏ bên hồ Bóng cây, lòng hồ ghi dấu Ơi! vạt cỏ dịu hiền, hiu hiu xa xăm Rừng vô bờ, bâng khuâng chắp cánh Nắng xoa lên mặt rừng Thức giấc xanh, thức giấc cổ tích Gọi gió về hiển hiện Ù ù vũ điệu trên không Như cao hứng, xua đi thứ cũ mèm đâu đó Rười rượi sóng xô tháp rừng Tinh khôi bó lại hoa mẫu đơn vàng Góc rừng miệt mài, tôi sải cánh Về đây mê rừng Xin đáy hồ cho tôi dứt cơn khát Bỏ đi xa hoa của món đồ giả dối Giản dị rừng và giản dị thân quen Nếp rừng Nếp nhà tự do muôn thuở Về đây, thoát giấc mơ tẻ nhạt Thoát so đo dại khôn Giải cứu bầy bong bóng vỡ tin yêu Giải cứu chật hẹp, vùi bấy lâu nơi phố xá Về đây với rừng. (262/12-10) |
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.