Thơ Sông Hương 09-2000

09:31 26/05/2010
Lê Lâm Ứng - Nguyễn Nhã Tiên - Trần Huyền Sâm - Lê Ngã Lễ

Ảnh: Internet

LÊ LÂM ỨNG


Ngọn lửa
 
       (Trích tráng ca "Việt Nam - chặng đường nắng lửa")

Nhân loại bắt đầu từ ngọn lửa
Tình yêu có ngọn lửa trong tim
Căm thù lửa bừng trên sắc mặt...
Chúng tôi mang trong mình ngọn lửa Việt Nam.
Ôi, ngọn lửa Việt Nam, ngọn lửa!
Cháy lên từ thuở Vua Hùng
Thuở Bà Trưng nổi trống Mê Linh
Thuở cưỡi sóng chém kình của Triệu Thị Trinh.
Thuở diệt giặc Lương dựng nước Vạn Xuân chỉ cần 3 tháng.
Lửa bén mãi, bén mãi không bao giờ tắt
Suốt nghìn năm Bắc thuộc đau thương!
Rồi lửa bùng lên đỏ sóng Bạch Đằng.
Soi lồng lộng bóng Ngô Quyền dìm đầu quân Nam Hán
Lửa nên lũy nên thành bên bờ sông Như Nguyệt
Ám ảnh bao đời giặc Tống xâm lăng.
"Nam quốc sơn hà..."
                                         vang mãi ngàn năm!
Lửa tụ điện Diên Hồng làm nên sấm sét
Giáng 3 lần tan mộng Nguyên Mông.
Dân tộc mãi ghi Bạch Đằng - Tây Kết - Hàm Tử - Chương Dương
Nhân loại nhớ ơn nước Đại Việt xưa - thần lửa.

Sóng vỗ, Sông Hồng sóng vỗ
Ngân vang Đại Cáo Bình Ngô
Sáu trăm năm! Ôi...! Nguyễn Trãi như vẫn sống đến bây giờ
Và lửa Lam Sơn vẫn như đang hồng sắc cờ Lê Lợi!

Đàng Ngoài, Đàng Trong khát khao mong đợi
Lửa Tây-Sơn lan khắp hai miền
Xoài Mút-Rạch Gầm khiếp đảm giặc Xiêm
Ngọc Hồi-Đống Đa, 20 vạn quân Thanh chết thiêu trong lửa
Quang Trung ơi, Người là ngôi sao thế kỷ
Thắp trong lòng nhân loại muôn năm!

Đất nước mây mù giăng ngót trăm năm
Lửa tiếp lửa điên đầu giặc Pháp
Từ Trương Định đến Hoàng Hoa Thám
Lửa thành con đường lửa nối Bắc với Nam!


NGUYỄN NHÃ TIÊN


Huế, mình tôi


Sẽ chẳng bài thơ nào hơn Huế
Nhan sắc ơi! Thưa gởi bao lần
Mỗi sợi tóc trên đường tôi vấp
Mỗi đi về dồn dập thanh âm

Mỗi vết thương mọc lời hạnh phúc
Mỗi chiều qua tôi nhớ ngàn chiều
Mỗi mưa xuống tôi thành trẻ khóc
Mỗi nắng vàng thề thốt tôi yêu

Mỗi
Mỗi
Mỗi
Không thành đôi được
Mỗi Huế thôi không thể hai lần
Mỗi nước mắt. Trời ơi! Giếng ngọc
Mỗi trường giang kiếm dựng trời xanh (1)

Cô đơn đến vô cùng Huế ạ!
Nghìn năm sau chẳng thể khác hơn
Em nhân ảnh suốt đời Vỹ Dạ
Cho câu thơ Tử mãi xanh rờn (2)

Sẽ chẳng bài thơ nào hơn Huế
Gọi gì tôi gió giục qua cầu
Đi là để không bao giờ tới
Tay chạm rồi Huế vỡ tan mau

 Hư vô hết đền đài em nhé
Một rêu nầy gìn giữ Huế thôi
Đừng bến bờ sáo mòn hẹn ước
Những môi người e sẽ bể dâu

Hư vô cả dòng sông em nhé
Một bài thơ vô tận chảy hoài
Mai xa rồi tôi còn mỗi Huế
Thanh âm nầy không thể lẫn
                                     thành hai.
                                   
Huế 26.6.2000

---------------------------------------
(1) và (2): Ý thơ Cao Bá Quát và Hàn Mặc Tử


TRẦN HUYỀN SÂM


Chớm thu


Một chiếc lá... khẽ rơi
Chao mình như cánh bướm
Buồn trong mắt ai...
Chiều hoàng hôn xa thẳm
Cuối chân trời mây trắng vẫn giăng trôi
Chở tình yêu về với phương nào...?
Cho nỗi buồn tan theo mây theo gió...
Hoàng hôn ơi!
Mùa thu sao đến vội?
Cho lá vàng
                            rơi
                                 rơi
                                    trong mắt ai...
                         
                          
Mùa thu 2000


LÊ NGÃ LỄ


Nén hương thơ

           
              Viếng mộ Hàn Mặc Tử

Thắp nén hương thơ lên mộ
Hàn Mặc Tử
Máu râm ran hôn nóng
Một hồn thơ
Trăng Ghềnh Ráng che nghiêng
Bóng chàng lãng tử
Ngậm câu thơ bẽn lẽn
Rớt xuống ghềnh
Nhớ chàng thi sĩ
Một mình nằm yên nghỉ
Thực hay mơ
Tôi thiếp tự bao giờ...
Bay thoang thoảng mùi
                                 hương thơ

Bên Ghềnh Ráng trăng nằm
Sóng soãi
Chỉ một hồn thơ
Thấp thoáng bên trời!

Vội vàng thắp nén hương thơ
Mai về thôn Vĩ
Ngẩn ngơ sông chờ...!
           
Ghềnh Ráng - Qui Nhơn 17.6.2000

(139/09-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nguyễn Hoa - Nguyễn Trọng Tạo - Hải Bằng - Minh Báo - Vũ Quần Phương - Lý Hoài Xuân

  • NGUYỄN KHẮC PHỤC    Viết cho năm MÙA THU hai mươi tuổi     Và câu chuyện tình dang dở lại bắt đầu

  • LTS: Hải Kỳ tên thật Trần Văn Hải. Sinh năm 1948 ở Đồng Hới. Thơ in từ năm 1969 trên các tập san, báo văn nghệ ở địa phương và Trung ương. Với tâm hồn say đắm, nhạy cảm thơ Hải Kỳ hướng tới những tìm tòi phát hiện chất liệu mới trong đời sống, với giọng thơ khỏe, tránh lặp lại mình.

  • XUÂN HOÀNGĐồng hới

  • Hoàng Vũ Thuật - Đông Triều - Đỗ Quyên - Đoàn Mạnh Phương - Đào Duy Anh - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Văn Hùng - Phan Lệ Dung - Trần Phương Trà

  • PHAN TRUNG THÀNHLời tạ của hải cẩu Hải Dương

  • HOÀNG VŨ THUẬTBài hát trong bóng đêm

  • Nguyễn Khoa Điềm - Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lâm Thị Mỹ Dạ - Trần Hạ Tháp - Lê Tấn Quỳnh - Nguyên Quân - Đức Sơn - Nguyễn Văn Quang - Lê Ngã Lễ - Lê Vĩnh Thái - Nguyễn Xuân Hoàng - Minh Đức Triều Tâm Ảnh - Hạ Nguyên

  • Anh Ngọc - Lâm Thị Mỹ Dạ - Nguyễn Thị Hồng - Phạm Tấn Hầu - Phạm Đình Ân - Phạm Hồ Thu - Trần Hoàng Phố - Vĩnh Nguyên - Hải Vân - Trinh Đường - Hoàng Minh Nhân - Hoàng Nhuận Cầm - Trịnh Trang Quỳnh - Đỗ Hoàng - Lê Nguyên Hồng

  • Vĩnh Nguyên - Trần Thị Linh Chi - Lưu Ly - Triệu Nguyên Phong - Tây Linh Phạm Xuân Phụng - Ngàn Thương - Từ Nguyễn - Trần Tịnh Yên - Tuệ Lam - Lê Huỳnh Lâm

  • Nguyễn Xuân Sanh - Trần Mạnh Hảo - Ý Nhi - Võ Văn Trực - Văn Tăng - Trần Hải Sâm - Thúc Hoàng - Quốc Minh - Trần Hữu Lục

  • Trần Trình Lãm - Châu Thu Hà - Nguyễn Tiến Chủng - Trịnh Hải Yến - Khaly Chàm - Nguyễn Quang Hưng - Huỳnh Ngọc Lan - Đông Hương

  • LTS: Phan Duy nhân là bút hiệu của một nhà thơ quen biết với bạn đọc trẻ miền Nam từ đầu những năm 60. Tên thật là Phan Chánh Dinh sinh năm 1941 quê xã Triệu Thượng, huyện Triệu Hải, Bình Trị Thiên, trưởng thành trong phong trào đấu tranh yêu nước của sinh viên Huế. “Thư gửi các bạn sinh viên” của anh in ở tuần báo Sinh viên Huế năm 1964 có thể xem là bài thơ mở đầu cho dòng thơ ca tranh đấu của tuổi trẻ đô thị miền Nam trong tù (Côn Đảo 1968-1973) và sau ngày giải phóng Phan Duy Nhân vẫn tiếp tục sáng tác, dù ít xuất hiện trên báo chí.

  • LTS: Hoàng Vũ Thuật, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam sinh năm 1945 ở Lệ Ninh - Bình Trị Thiên. Xuất thân là một giáo viên, sau chuyển qua làm công tác văn nghệ. Bạn đọc đã quen tên anh trên các mặt báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Tập thơ “Những bông hoa trên cát” xuất bản 1980 đã khẳng định bước đi ban đầu khá vững tay của anh.

  • THANH THẢOKhối vuông ru-bích

  • Lý Hoài Xuân - Nguyễn Loan - Trương Kiến Giang - Xuân Diệu - Chế Lan Viên - Nguyễn Hới Thọ - Nguyễn Hoa - Nguyễn Hữu Quý - Dương Toàn Thắng

  • ĐINH CƯỜNGCào lá ngoài sân đêm

  • Đức Sơn - Nguyễn Trường - Phan Lệ Dung - Nguyễn Đông Nhật - Kiêm Thêm - Nhất Lâm - Nguyễn Man Kim - Phạm Thị Điểm

  • Thu Bồn - Nguyễn Duy - Ngô Thế Oanh - Nguyễn Thụy Kha - Thế Dũng - Đỗ Văn Khoái - Mai Văn Hoan