"Con yêu bánh nậm" - Nguyễn Thượng Hỷ
ĐÔNG HÀ Anh thương em bằng chiều dài đất nước Rơi xuống đi em cho bằng ngàn năm Những vết tích đầy nỗi buồn nặng đầy sử sách Anh sẽ đưa em qua những miền phế tích Treo lên mắt mình nỗi triệu triệu đường vân Máu chảy chưa em Mà tim anh nồng men như buổi đưa mắt em qua hàng cây lá đỏ Thuở ấy thơ cũng sống Bằng tiếng người yêu gọi nhau lật cả chuyến đò Một trăm năm không em Một ngàn năm không em Tuổi nào kết mây tuổi nào cầm gió Anh đưa em đi cong cả chữ S thân thương này Chuyến tàu đêm chùng chình anh hôn em mỗi nhịp đường ray oằn lên xóc nảy Mai sau ai qua nơi ấy Vệt khắc tình chi hồ dễ còn lưu Mà trong em trong anh vệt máu không nhàu Để bài thơ đất nước vẫn hồng hào duyên nợ Rơi xuống đi em Trăm năm không sâu ngàn năm không mỏi Anh thương em bằng chiều dài đất nước Đi hết đường rồi ta sống lại trẻ thơ... Mai này về gặp lại chốn quê Đơn giản thôi em nhìn mẹ mình đội nón Đội nắng mưa chở tảo tần ngắn gọn Cho lúa cho đồng trổ ngát hương hoa Những ngày này đọc Vũ nghe gió bay Giọt hình hài mang hình đất nước Anh và em hai chiều đất khác Chỗ này thức rồi nơi ấy mới ngủ yên Sách đọc gấp rồi lại trở dậy với nhau Nghe máu thắm màu cờ Tổ quốc Em ơi đừng khóc Nước mắt anh vẫn chạy quanh hồn Trái tim già nua chưa em Mà sao tiếng còi tàu nghe mỏi mệt Anh đã delete hàng trăm chuyến bay Như lời xưa hẹn ước Như Vũ ngày xưa đã khóc Giờ chúng mình gõ phím Mà nghe mưa gió bàng hoàng. TỪ NGUYỄN Trả lời Người đàn bà quỳ trước đấng thiêng liêng xõa tóc cầu xin thứ tha những điều lầm lỗi nước mắt nhòa vũng tối mênh mông... Người đàn bà ngang qua sông nguyện lòng sám hối nước dưới dòng sông thầm hỏi: Thật không? Người đàn bà ngồi giữa ăn năn nghe giữa đêm đen, thánh thần kể tội thời gian sẽ đi vời vợi cho con thấm nỗi nhân tình Người đàn bà quay về đếm nỗi đau đời mình từng ngày từng đêm than van một mình Muốn quên mà chẳng thể quên... ĐÔNG TRIỀU Điều còn lại trên cánh đồng Có phải là con trâu trong bài vỡ lòng mở đất Là nắm cơm khô trưa nắng xé đỉnh đầu Là tiếng mùa vói vọng lại đêm sâu Con nước lớn cá trườn vào ruộng hạn Lạch nông nhỏ bất ngờ thành mương lớn Mưa tràn về chới với một vầng trăng… Có phải chiếc khăn rằn cổ tích cứ băn khoăn Không cơn gió quày về lưng áo mẹ Không cơn gió đẩy diều dâng mắt trẻ Đàn chim bay đi lâu chưa thấy quay về Lật đất cày nghe mặn rát con ngươi Rơi xuống đó tháng năm dài. Rơi xuống đó… Có phải ven đê là những nấm mồ xanh cỏ Từ bao năm yên ả khuất ven rừng Từ bao mùa quên lãng bước dân quân Chen máu lửa cùng màu cờ xông tới… Có khi đó cũng là mả mồ ngoại, nội Người đang đi trong xiêm áo oai hùng! Có phải nén hương về lẩn dưới hiên nhà Giông sét phạt lả ngọn dừa canh đất Lời nguyền yêu đương bỗng hóa thành sự thật Đám rước dâu đi bộ mấy giang đò Già với già nhắc chuyện sắp phôi pha Ai khắc hết cuộc đời lên tảng đá? Có phải bài vọng cổ còn về nương mái rạ Lẻn vào hương lúa chín rộ cánh đồng Mùa hoa tràm xõa trắng mặt dòng kênh Nghe tan tác tiếng thở dài ray rứt Đêm lá reo rặng trâm bầu thao thức Đi giữa quê hương yêu trăm mối vô hình! Những chuyến xe từ giã cánh đồng Trên tháp phố nhìn dòng người lao tới Trông đám phù vân huyền hư biến đổi Đôi mắt bới lên lặng ngắt tia nhìn Nơi- đây- còn- lại- cánh- đồng Là ký ức dắt nhau đi truyền kiếp… QUÁCH THÀNH Đại Bàng hát và hát Tưởng niệm Y Moan Như đại nạn thuở hồng hoang buôn Dhă Prông chiều nay lời Aray đẫm nước mắt ngấm tắt bếp lửa nhà sàn xót xa lặng lẽ thì thầm dưới bóng cây K’nia, trên rẫy, bến nước, trong chòi cầu thang, ngoài ngõ... buôn làng truyền cho nhau điều mất mát Cách Chim Đại Bàng đại ngàn Cao nguyên ngừng vỗ cánh. Y Moan! Y Moan! Đại Bàng hát hát về nắng, về gió, bụi đỏ, núi đồi hát về rừng, về rẫy, lửa, nước Cao nguyên và hát về làng buôn bao đời lang thang như con thú hoang trong rừng sâu tìm no, trốn đói... Y Moan! Y Moan! Đại Bàng hát hát cho gió đại ngàn thổi suốt bốn mùa xanh hát cho hoang vu ấm lại tiếng người cho tâm hồn mãi xanh như lá hát và hát cháy và cháy đủ đậm, đủ đắng, đủ cay, bão tố, cuộc đời hát mãi với làng buôn xưa. Y Moan! Y Moan! buôn Dhă Prông chiều nay lời Aray đẫm nước mắt như hồng hoang đại nạn đưa Cánh Chim Đại Bàng về với trời xanh về “nơi không còn cô đơn, không buồn, không vui...” hơi thở dù tắt trái tim ngừng đập gió Đại ngàn vẫn ù ù mãi thổi vang vọng rook rừng âm thổ ngàn xưa. NGUYỄN NHÃ TIÊN Trước chiều quên Không chiều này, lại chẳng chiều xưa giờ đang ở với chiều nào, không biết đâu phải mặt trời non đoài báo ngày đang hết thời gian có là gì trước một chiều quên Nắng vàng nỗi vàng áo xống màu mây tóc xanh nỗi xanh biếc lời gió kể em là vô biên hay em ngoài dâu bể giọt nắng đổ cành sương thân phận một lưu đày Hái phù vân thi sĩ mỏi tay cầm giờ theo em lên chùa thưa tội tình với Phật chiều như dòng sông Cổ Cò ngủ quên trái đất có mùa xuân sinh thành trên dòng nước vô ưu Không chiều này cũng chẳng chiều xưa em là em giọt nắng kia đổ cành sương ta vọng thức chiều vô thanh bỗng dưng tràn hương sắc vắng người khua chuông mà động vọng mình! NGUYỄN TRỌNG VĂN Nhớ cá bống mú kho mùa lũ Nhớ cá bống mú kho mùa lũ ngày cha tôi lặn lội nước sông Bồ ơi xứ Huế, xa miềng chừ nhớ Huế cá bống mú kho mùa lũ nhắc nhau về. Bưng bát cơm chát lòng nơi đất khách sông Bồ oằn lên trong nước nổi đôi dòng tôi như thể lá gừng lá sắn trôi lềnh bềnh theo bống mú bên sông. Đám cá rủ tôi đạp bơi lên màu nước đạp bơi lên cái đói cồn cào tôi lớn dậy hồng hào qua cơn lũ xuôi sông Bồ bỏ xứ Huế mộng mơ. Tôi đi khắp cùng trời cuối bãi ngày phong lưu đêm vỡ những trận cười lúc đớn đau mới thấy mình vụng dại thèm lưng cơm chấm cá bống mú sông Bồ. Nhớ cá bống mú kho mùa nước lũ ngày cha tôi lặn lội suốt sông Bồ. Viết trong những ngày lũ, tháng10 -2010 QUANG HUY Huế chiều Sông Hương không chở thuyền đầy Để cây núi Ngự uốn gầy gió đông Trường Tiền nghiêng mảnh trời cong Cánh chim trễ nải lượn vòng phố xa Rượu suông đắng nỗi nhớ nhà Ta ngồi uống với mình ta hững hờ Đâu rồi bóng dáng ngày xưa Hoàng cung rêu đã phủ mờ giấc sâu Chiều rồi. Nón Huế về đâu Áo em tím một tinh cầu hoàng hôn LÊ VĂN DOÃN Khúc nghiêng Trời nghiêng bởi cánh cò bay Biển nghiêng bởi sóng ngất ngây vỗ bờ Đêm nghiêng bởi mảnh trăng mơ Ngày nghiêng bởi có ai chờ đợi ai Em nghiêng giữa cánh đồng ngoài Tình nghiêng soi ánh trăng đầy... nghiêng em Anh về bóng đổ bên thềm Nghiêng nghiêng đôi lúm đồng tiền em trao. TRẦN NHUẬN MINH Đứng trên thành nhà Hồ nhớ câu thơ “Phúc chu thủy tín dân do thủy” của Ức Trai Nguyễn Trãi Khi vương triều không còn hợp lòng dân Thì thành đá cũng chỉ là bùn nhão Ngai vàng đổ trong mùa không mưa bão Mặt xâm lăng lố nhố khắp kinh thành Dân là ai?... Tôi bỗng rùng mình Nền cung điện, phân bò rơi rải rác Núi Cầm Hồ(1)cỏ may bay xao xác Mệnh trời ư? Nào biết có hay không... Từng thúng ngón tay đổ ào ào xuống sông(2) Nhà Hồ mất(3), làm sao mà cưỡng được Lật thuyền mới biết dân như nước Bóng Ức Trai đi, động gió bốn phương trời... ------------ (1) Nơi cha con Hồ Quý Ly bị bắt. Sử gia phong kiến cho đó là “Mệnh trời”. (2) Xây thành đá, ngón tay của dân bị đá kẹp đứt, đổ từng thúng xuống sông. (3) Nhà Hồ mất năm 1407. (265/3-11) |
Vân Long là tạng người thơ không chịu cũ. Nhà thơ luôn ý thức được việc làm mới mình để có thể đồng hành với nền thơ đương đại và nhịp thở nóng hổi của cuộc sống thường nhật.Dù là trữ tình tự sự hay nội cảm ngoại quan, thơ Vân Long luôn để lại những dấu ấn sáng tạo - dấu ấn lao động thơ. Vân Long đã từng có duyên với xứ Huế qua “Đêm sông Hương”, “Vườn Huế”... được tuyển chọn trong Tuyển thơ Sông Hương 20 năm...
khi em là vực sâu im lặng tôi pho tượng đá lắng nghe...
...chim chích bay về đăm đắm mắtnghe phế hưng bông lơn ký ức thành xanhrêu...
Nguyễn Văn Quang - Trần Thu Hà - Nhất Lâm - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Ngàn Thương - Ngô Thị Hạnh - Nguyễn Thánh Ngã - Xuân Thanh - Phan Văn Chương - Thạch Thảo - Trần Đôn - Nguyễn Nhã Tiên - Đoàn Lam - Tiến Thảo - Đoàn Giao Hưởng
...Cả thành phố lúc nào cũng rậm lờiAnh không thấy tấc vỉa hè nào dành cho mình cả...
...họ mơ thấy Hồ Gươmlà một vò rượu lớnbị bỏ quênbên sông Hồng đến cả ngàn năm...
Mai Văn Phấn - Hoàng Chinh Nhân - Lê Huỳnh Lâm - Ngô Thiên Thu - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Hoa - Hoàng Nguyệt Xứ - Lê Hưng Tiến - Phạm Xuân Trường - Ngô Công Tấn - Từ Hoài Tấn - Văn Lợi - Quang Tuyến - Nguyễn Loan - Lê Vĩnh Thái - Vĩnh Nguyên - Hoàng Ngọc Quý
HUỲNH THÚY KIỀUHọ và tên: Huỳnh Thuý Kiều; Cầm tinh con Ngựa - 1978Bút danh: Hoa Đồng Nội. Nơi làm việc: Nhà xuất bản Phương Đông tỉnh Cà MauĐã có tuỳ bút, tản văn, đặc biệt là thơ đăng trên các báo Trung ương và địa phương. http://huynhthuykieu.vnweblogs.com
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOSinh năm: 1979Quê quán: Hà TĩnhTốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Khoa học HuếHiện là biên tập viên tạp chí Đà Nẵng ngày nayhttp://nguyenthianhdao.vnweblogs.com
Trần Thị Huê, sinh năm 1970 ở Hiền Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình. Năm 1997 xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Nhật Lệ với chùm thơ 3 bài Chiều, Đợi, Cỏ xanh. 5 năm sau chị xuất bản tập thơ đầu tay Sóng vọng. Nhưng phải đợi đến những năm gần đây gương mặt thơ chị mới hiển lộ với những đường nét vụt hiện, gấp khúc. Cái - tôi - cá - thể đã làm giàu thêm mục đích và ý nghĩa sáng tạo nghệ thuật.
Bạch Diệp - Vi Thuỳ Linh - Phan Huyền Thư - Phùng Hà - Nguyễn Thị Hợi - Hồng Vinh - Đông Hà - Nguyễn Thị Thái - Hoàng Thị Thiều Anh - Đinh Thị Như Thuý - Nguyễn Thị Thuý Ngoan - Thạch Thảo
...Vắt qua bầu trời mờ cánh chim nhỏVắt ngang dòng sông trổ nụ hồngVắt ngực tình em bay hương cỏVắt suốt mùa đợi một ngóng trông...
Nguyễn Trọng Tạo - Tường Phong - Trần Áng Sơn - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Hữu Đoàn - Nguyên Quân - Nguyễn Thành Nhân
HÀ NHẬTLTS: Lớp học sinh niên khóa 1964-1967 ở Trường Cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình 40 năm trước đã sinh ra hàng chục nhà thơ, trong đó có những người đã thành danh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty... Công lao bồi dưỡng, vun đắp nên những nhà thơ đó là hai thầy giáo dạy văn cực giỏi: Lương Duy Cán và Phan Ngọc Thu.
...Lão du - già xát đầy mình tro tử thi vừa nguộiƯớp xác phàm bằng hương liệu sắc - không...
...ai đuổi theo xe tăng, bắn B40 vào xe tăng, rồi bị xe tăng nghiền nát trên con lộ Bốn?ai đạp phải mìn cụt một chân ở chi khu Xuân Lộc, rồi bằng nạng gỗ với một chân...
Nguyễn Thiền Nghi - Trần Hoàng Phố - Tiến Thảo - Xuân Thanh - Võ Văn Luyến - Nguyên Hào - Hoàng Cát - Ngô Hữu Đoàn - Trần Kiêm Đoàn - Mai Thìn - Đặng Như Phồn - Tôn Phong - Kiều Trung Phương - Đinh Thu
Tên thật: NGÔ THỊ KIỀU HẠNHNăm sinh: 24 - 12 - 1983 tại Cam Ranh – Khánh Hòa Hội viên Hội VHNT Khánh HòaĐã có thơ đăng Kiến thức ngày nay, tuần báo Văn Nghệ, và nhiều tạp chí trong nước.
Sinh năm 1965 tại Thái Nguyên – Tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du, vừa viết văn làm thơ. Hiện đang là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tác giả của 4 cuốn tiểu thuyết gây sự chú ý của dư luận văn chương – Nhưng thơ mới là bản ngã sáng tạo chính của Nguyễn Bình Phương với 3 tập thơ đã xuất bản: Lam chướng; Xa thân; Từ chết sang trời biếc...
Là một tác giả thơ quen biết trên tạp chí Sông Hương, gần đây với tập thơ Ngày rất dài (NXB Hội Nhà văn, 2007), Đoàn Mạnh Phương đã và đang được dư luận chú ý bởi những nỗ lực cách tân thơ.