Khaly Chàm - Phan Hoàng - Trần Hữu Dũng - Phan Hoàng Phương - Vũ Thiên Kiều
"Chiêm bao" của HS Lê Thị Thúy Hằng
KHALY CHÀM
Cõi mơ trở về
tầng trời ngực hoang nhiễm sắc
biển thanh xuân huyền bí
hồn ngủ trong đáy vực nước
diệu kỳ những vòng xoáy
tiền thân chiêm bao hóa thạch
ôm mầm trăng lạnh
ngàn triệu năm lửa xanh
bồng bềnh cốc rượu suông
cõi trăng vàng lạnh đam mê
linh cầu nhỏ từng giọt máu
hụt chân ngã sấp
nghe rõ tiếng gọi của đất
PHAN HOÀNG
Khi người nông dân để lại cánh đồng
Người nông dân
lần lữa
rời cánh đồng
bước chân nặng nề chậm chạp
như con bò già kéo cày giữa trưa đứng bóng
sau lưng thời gian sấm chớp
không còn nữa những tối lai rai bàn giống lúa mới
không còn nữa những khuya bồn chồn tỉnh giấc đợi tiếng gà
không còn nữa những trưa thiêm thiếp chiêm bao giữa bầy tu hú
không còn nữa những chiều hỉ hả đốt đồng mùa gặt bội thu
Người nông dân
lững đững
ngoảnh lại cánh đồng
bước chân nặng nề chậm chạp
như làn mây xám mệt mỏi trôi qua rặng núi chiều đông
sau lưng đất đai sấm chớp
màu cỏ sân gôn sẽ thay màu lúa tình tự ngàn đời
dãy dãy tường cao sẽ thay bờ vùng bờ thửa
từng dải khói đen sẽ thay những đàn cò trắng
tiếng máy buốt đêm sẽ thay tiếng nhạc côn trùng
Người nông dân
lầm lũi
để lại cánh đồng
bước chân nặng nề chậm chạp
như người lính bị tước vũ khí cúi mặt rời khỏi chiến trường
sau lưng rền vang sấm chớp
TRẦN HỮU DŨNG
Luang Prabang
Uống cạn chai bia ở quầy rượu
Vất điếu thuốc cháy dở xuống dòng nước
Chuyến phà chậm rãi băng ngang sông Mékong
Thấp thoáng sân nhà ai bầy bồ câu mổ thóc
Đâu cần gì vội vàng ở xứ sở Ngàn Voi nầy
Thong thả bước vào đền thờ
Nụ cười Phật toả sáng
Rì rầm lời cầu nguyện
Hơi thở vũ trụ thanh khiết lan nhẹ
Chuông chùa dội âm âm lồng ngực
Luang Prabang
Còn hai giờ thong thả ở sân bay
Ý nghĩ lượn lờ như cánh bướm
Làm sao phân biệt
Đâu là hương thơm em
Và vị nhớ đất nước Lào.
PHAN HOÀNG PHƯƠNG
Như một lời tạ ơn
Vẫn còn những vạt cỏ ven sông mà ta ước
Hoàng hôn rơi nằm ngửa mặt lên trời
Vẫn còn những cánh đồng xưa mà ta ước
Tiết hạ sen hồng, vàng cúc tiết thu
Trời có giấu gì đâu
Đất có giấu gì đâu
Sao ta cứ phải giấu nhau cả những điều bé mọn
Cả ý nghĩ, cả tủi buồn nhọc nhằn theo năm tháng
Cả lời yêu thương chưa kịp bật lên rồi vụt tắt
Cả lời thanh minh không còn dịp trao nhau
Ta chơi dao trót bị đứt tay
Vết thương quá sâu ngỡ không lành lặn được
Những nấn ná bên nhau đợi tháng ngày tha thứ
Đợi buồn đau bảo bọc lấy buồn đau
Tạ ơn trời đất linh thiêng
Đã giúp cho cỏ cây hồi sinh trở lại
Xa xăm kia, những vạt cỏ vẫn rạp mình trước gió
Vẫn ai kia cất lên khúc hát mê cuồng
Sâu thẳm biển khơi kia vẫn con thuyền chao đảo
Ngàn vạn vì sao thả xuống suốt đêm trường.
VŨ THIÊN KIỀU
Cánh thư ngược gió
Sắc hương nũng nịu gió trời
Cánh thư ngược! Trút thỏa lời nơi đâu?
Ví dầu... ai hát… ví dầu…
Đóng đinh chặt! Phép nhiệm mầu có chăng?
Thương yêu mấy cuộc đãi đằng
Lòng em lưới bể vây giăng khát mùa
Cánh thư ngược gió cầm thua
Dội miền ký ức cơn lùa cuộn cơn
Bung chi nét chữ tủi hờn
Hoa cài mắt lệ nhuốm sơn gỡ gì?
Hoặc huyền hai nửa chi chi
Đỏ đen kiều diễm… xuân thì vùi sương
Cánh thư tím! Nhợt môi hường
Nhịp tim vật vã con đường xẻ đôi
Trăm năm kiếp gió luân hồi
Cánh thư trĩu nặng chăm bồi gởi ai?
(SH289/03-13)
PHÙNG TẤN ĐÔNG
Em còn chờ ta ở đó không
TRẦN THỊ TƯỜNG VY
Tháng Chạp bông hồng vàng
Đỗ Nam Cao - Nguyễn Trọng Tạo - Trần Chấn Uy - Nguyễn Văn Chương - Phùng Tấn Đông - Trần Quang Đạo - Trần Lê Văn
Hương xuân - Bài ca mùa xuân
Bạch Diệp - Nguyễn Hữu Minh Quân - Nguyên Tiêu - Nguyễn Thiền Nghi - Phan Lệ Dung - Lê Viết Xuân - Nguyễn Tấn Tuấn - Ngô Thiên Thu - Đinh Ngọc Diệp - Trịnh Bửu Hoài
LÊ HƯNG TIẾN
NGUYỄN NGỌC HẠNH
ĐINH THỊ NHƯ THÚY
HUỲNH LÊ NHẬT TẤN
PHÙNG CUNG
VŨ THANH HOA
Ngô Liêm Khoan - Nguyên Hạnh - Trần Hương Giang - Hoàng Ngọc Giang - Dương Anh Đằng - Trịnh Minh Hiếu
Lê Tấn Quỳnh - Nguyễn Đông Nhật - Trần Thị Tường Vui - Đỗ Thượng Thế - Kiều Trung Phương - Nguyễn Thanh Văn - Từ Nguyễn - Huỳnh Ngọc Phước
NGUYỄN HƯNG HẢI
NGUYỄN THIỆN ĐỨC
PHẠM ÁNH
LTS: Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tăng Việt. Sinh ngày 20 tháng 2 năm 1922 tại làng Phúc Tằng, huyện Việt Yên (do đó mới có tên là Tăng Việt), Hà Bắc. Con một nhà nho không thành đạt, sống bằng nghề thầy thuốc. Hoàng Cầm (tên một vị thuốc rất đắng) là bút danh dùng từ năm 1939.
(Trích trong tập thơ sắp in: “Những vẻ đẹp khác”)
LTS: Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng "Màu tím hoa sim", tham gia cách mạng từ năm 1936 trong phong trào học sinh ở Thanh Hóa.
LTS: Trong 5 năm qua, trên những trang thơ, cùng với việc giới thiệu các tác giả có nhiều tìm tòi, có bút pháp riêng như Văn Cao, Thanh Thảo, Trần Vàng Sao, Phạm Tấn Hầu... Sông Hương đã chú ý đến những cây bút ở cơ sở - mà anh em trong tòa soạn gọi vui là "tác giả chân đất, như Phương Xích Lô, Nguyễn Thị Thái...