Thơ Nguyễn Bính: chân quê mà vẫn dân tộc và hiện đại

10:37 08/03/2023

VƯƠNG HỒNG HOAN

Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Bính là một thi sĩ được nhiều người yêu thích và trân trọng. Cuộc đời và thơ ông luôn luôn được nhắc đến trong bạn đọc nước ta hết thế hệ này đến thế hệ khác.

Ảnh: tư liệu

Nét đặc sắc nhất trong thơ Nguyễn Bính mà trong suốt gần ba chục năm cầm bút nhà thơ đã tạo một gương mặt, một bản sắc riêng trong văn học Việt Nam hiện đại nói chung và thơ ca lãng mạn 1932-1945 nói riêng: chân quê mà vẫn hiện đại.

Khi mới 13 tuổi, Nguyễn Bính đã nổi tiếng trong việc làm và ứng thơ. "Cô hái mơ" là bài thơ được đăng báo đầu tiên. Năm 1937, Nguyễn Bính gửi tập thơ "Tâm hồn tôi" dự thi và được giải thưởng Tự Lực Văn đoàn. Từ đó, thơ của Nguyễn Bính liên tục xuất hiện trên báo chí. Chỉ trong 3 năm 1940 - 1942, Nguyễn Bính đã cho ra mắt bạn đọc liền bảy tập thơ nổi tiếng "Lỡ bước sang ngang" (1940). "Tâm hồn tôi” (1941), "Một nghìn cửa sổ" (1941), "Người con gái ở lầu hoa" (1942), "Mây tần" (1942), "Mười hai bến nước" (1942) trong khi các nhà thơ đã nổi tiếng vài năm trước đó như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận... mỗi người cũng chỉ có một vài cuốn. Nguyễn Bính được đông đảo bạn đọc yêu mến chính vì "trong khi phần lớn các thi sĩ Thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính vẫn tha thiết với điệu thơ dân tộc, với lối ví von duyên dáng ý nhị mà mộc mạc của ca dao, nên thơ ông được nhiều người yêu thích... Thơ Nguyễn Bính đã ít nhiều đem lại cho phong trào Thơ mới ít nhiều màu sắc, hình ảnh, hương vị quê hương xa xưa” (Từ điển Văn học tập II NXB KHXH 1984 mục từ Nguyễn Bính trang 19).

Trong bài viết về thi nhân Nguyễn Bính tháng Tám 1941, hai tác giả của cuốn "Thi nhân Việt Nam" đã nhận xét rất tinh tế về hồn thơ chân quê mà vẫn dân tộc và hiện đại này: "Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính cách đơn giản của dân quê là những tính cách căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người ta đã làm những câu ca dao mà dân quê đã hát quanh năm và những tác phẩm của người bây giờ đã có vô số nhà thông thái nghiên cứu".

Cảm nhận thơ Nguyễn Bính nhiều người nhận xét thơ ông đã tiếp nhận được nguồn mạch giàu có vô tận của văn học dân gian nói chung và của ca dao nói riêng. Ngược lại chính sự tiếp thu vốn cũ ấy, thơ Nguyễn Bính đã có nhiều sáng tạo ý nhị, tinh tế làm cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về ca dao xưa. Sự ảnh hưởng qua lại, tác động tương hỗ giữa thơ Nguyễn Bính và ca dao đã lý giải thấu lý, đạt tình sức sống của những câu thơ, những bài ca dao xao xuyến đến nao lòng như thế. Nguyễn Bính vận dụng ca dao rất sáng tạo ngay từ những nét nổi bật của nội dung và cả những thủ pháp nghệ thuật để từ đó tạo cho thơ ông vừa gần gũi thân quen vừa mới lạ. Trong bài thơ " hái mơ'' cái hay nhất của thi sĩ là học cách nói lấp lửng của chàng trai thông minh tế nhị khi tỏ tình với bạn gái vừa quen biết:

"Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? đường thì xa
Mà ánh chiều hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta"

Rõ ràng, câu thơ cuối trong khổ thơ này, Nguyễn Bính đã dùng "đường cong giai điệu" (chữ dùng của Vưgốtxki), cách nói lấp lửng có duyên của chàng trai để bộc lộ tình cảm yêu đương thắm thiết.

Ở một bài thơ khác, vẫn là lối của tình yêu, nhưng lại biểu hiện qua cách nói của cô gái duyên dáng và kín đáo.

Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng.
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng thương em"
                             
(Xa cách)

Chìa khóa để giải mã bài thơ chính là từ những con số rất cụ thể mà lại mơ hồ từ bốn, ba, hai. Tại sao cô gái nói nhà cô "xa cách quá chừng" mà những đồi, những suối, những rừng lại cứ giảm dần từ nhiều đến ít. Thực ra cô gái đã yêu, yêu đến mức tha thiết phải "van người yêu đừng thương mình nữa". Nguyễn Bính có lý và thật nhạy cảm khi lần đầu trong tập "Tâm hồn tôi” câu thơ cuối là: "Em van anh đấy, anh đừng yêu em”. Giữa từ thương và yêu là sự lựa chọn của tác giả khi gửi thơ in trong "Thi nhân Việt Nam” năm 1941. Sắc thái tu từ của từ "thương" vừa rộng mở về nghĩa và có sự biểu cảm sâu sắc hơn nhiều với một từ "yêu" có phần nào ít duyên. Để diễn tả nỗi nhớ nhung sốt sắng, ca dao dùng cách ví von, so sánh:

"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than"

Từ sự da diết và sâu lắng ấy, Nguyễn Bính biểu hiện nỗi nhớ của mình:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ, mười mong một người.
                             
(Tương tư).

Thôn Đoài, thôn Đông là những địa danh quen thuộc trong ca dao, dân ca và nỗi nhớ vẫn là nỗi nhớ của chủ nghĩa cổ điển. Đến hai câu tiếp theo thì rõ ràng là cách nói của thi pháp lãng mạn:

Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

"Bệnh tương tư" tuy không là cách nói mới nhưng khẳng định đó là "bệnh” của "tôi" thì quả thật chỉ có Nguyễn Bính mới lấy hiện tượng gió mưa từ đó làm nổi rõ tương tư là cái thuộc về trái tim, tâm hồn của con người đa cảm. Đúng như Đỗ Lai Thúy đã nhận xét "Hình như bầu tương tư chất chứa trong ông chỉ tìm cớ mà tuôn chảy. Đầu tiên là nhớ nhung trai gái, sau đó là cây cối nhớ nhau cuối cùng là miền không gian này nhớ miền không gian khác" (Đường về chân quê của Nguyễn Bính - Tạp chí Văn học số 6 năm 1991 trang 29).

Và vì vậy, trong thơ Nguyễn Bính, hệ quả của nỗi nhớ này là nguyên nhân của nỗi nhớ sau:

Nhà em có một giàn trầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
                                       
(Tương tư)

Sự lựa chọn và xác lập một hướng viết: "chân quê" Nguyễn Bính đã quyết định một cách tự nguyện: "Anh về quê cũ thôn Vân. Sau khi đã biết phong trần ra sao". Nếu Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ... (thời Thơ Mới trước 1945) chủ yếu là thưởng ngoạn "cảnh quê", "tranh quê" thì Nguyễn Bính đi vào những cung bậc "tình quê", "hồn quê". Thơ Nguyễn Bính "chân quê" nhưng được biểu đạt bằng nghệ thuật động mang tính thời gian, khác xa nghệ thuật tĩnh mang tính không gian của các nhà thơ mới nói trên.

Vậy thơ Nguyễn Bính dân tộc và hiện đại thể hiện ra sao? Điều này, quả là dễ hiểu một khi ta hãy bình tâm, lặng lẽ cảm nhận, suy ngẫm mỗi dòng thơ của thi sĩ. Chẳng phải tìm đâu xa, đọc lại vài câu trong bài "Người hàng xóm" (in trong tập "Tâm hồn tôi" 1941) ta cũng đã rõ: Nguyễn Bính làm thơ như một sự tâm tình với bạn thâm giao:

"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thể nào tôi cũng sang chơi thăm nàng".

Cái mới trong khổ thơ này không phải gọi người yêu là "nàng", một cô hàng xóm quen biết mà chính là cái tâm trạng "cô đơn", "nỗi buồn" của cái "tôi" mang tính thời đại mà tác giả Thi nhân Việt Nam đã lý giải đầy sức thuyết phục và rất thơ hơn nửa thế kỷ nay. Cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn bàng hoàng, thán phục thi sĩ khi ông đặt bút viết câu thơ rất tài hoa và đa tình khó quên:

... "Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa".

Những câu hỏi tu từ, những dấu chấm hỏi, chấm than, chấm phẩy như có hồn trong câu thơ đã diễn đạt tâm hồn xao động, trầm lắng, náo nức và hồi hộp, say đắm và đợi chờ... của thi sĩ. Có lẽ, chỉ vậy thôi, chúng ta cũng dễ thừa nhận và được thơ Nguyễn Bính minh chứng cho sự chân quê mà hiện đại như thế nào. Không hiểu sao mỗi lần đọc thơ Nguyễn Bính trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, hình ảnh "cái dậu mùng tơi xanh rờn" và câu thơ: "Có gì như thể nhớ mong? Nhớ nàng! Không! Quyết là không nhớ nàng" vẫn cứ vấn vít, ám ảnh xao xuyến trong tình cảm của một bạn đọc bình thường như tôi. Và tôi tin, có lẽ tình cảm ấy, ít nhất là một lần đến với đông đảo bạn đọc yêu thơ Nguyễn Bính.

Huế, tháng 10.1996
V.H.H
(TCSH95/01-1997)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!