JAN WAGNER (Schriftsteller)
J. Wagner sinh ngày 18/10/1971 tại Hamburg CHLB Đức, nhà thơ, nhà văn và thông dịch viên.
J. Wagner đã học tại các trường đại học Hamburg, Dublin (Tritiny College) và Berlin (Đại học Humbold), tốt nghiệp cử nhân văn chương về thơ, sống ở Berlin từ năm 1995, hoạt động trên lãnh vực văn chương và thơ từ năm 1995. Nhiều bài thơ đã đăng trong các tuyển tập thơ (trong đó Der Große Conrady) và các báo văn chương tại Đức (Akzente, BELLA triste, Sinn und Form, Muschelhaufen). Với tư cách nhà phê bình văn học, J. Wagner viết điểm sách cho các báo và đài phát thanh. J. Wagner là hội viên của Viện Hàn Lâm Bayern về Mỹ thuật, Viện Hàn Lâm khoa học và văn chương tại Mainz, Viện Hàn Lâm Đức về ngôn ngữ và thi ca ở Darmtadt và của Trung Tâm văn bút PEN Đức.
Tập thơ “Biến tấu thùng nước mưa” (Regentonnenvariationen) có 5 chương bao gồm 57 bài thơ đã đoạt giải Hội chợ sách Leipzig (Leipziger Buchmesse) ngày 12 tháng 3 năm 2015 trên lãnh vực mỹ văn (Belletristik). Đây là lần đầu tiên một tác phẩm thơ đoạt giải này.
“Vẻ đẹp nơi thùng nước mưa nằm ở điểm, người ta tưởng rằng nó hoàn toàn không có. Hay là người ta không chú ý nó, thùng nước mưa là một trong những đồ vật mà ta ngày ngày đi ngang qua, chúng nằm trong một góc tối và ta bỏ quên không nhìn ra chúng nữa. Và chính chúng lại là những đối tượng có thể thành thơ”.
Thơ ca trong cảm nhận của J. Wagner khởi từ cái nhìn sâu vào mỗi hiện vật, dù là vật nhỏ bé đến đâu, như cái đinh, như con muỗi, mận gai, hoa gai bạc… chúng đều là đối tượng cảm hứng thơ của ông. “Thơ của J. Wagner vì thế có tính trực quan, đặc thù, thông minh một cách khiêm tốn. Hoa cỏ, động vật, và số phận đổ nát của con người đều được nhà thơ đón nhận bằng cái nhìn thân thiết…” như nhận định của ban giám khảo.
J.Wagner là nhà thơ của cái nhìn trực quan, đem đến cho người đọc nhiều thú vị bất ngờ, rằng hình như chúng ta đã có thể có lần đã nhìn, đã cảm, đã biết như thế, đã tưởng chỉ là những thứ tầm thường, đơn giản của cuộc sống chung quanh, bất ngờ chúng thành thơ… Cho nên chúng được làm thơ bằng ngôn ngữ giản đơn của đời thường, không văn hoa bay bổng, mộc mạc đến khổ độc nhưng đồng thời mời gọi sự chia xẻ của con người đời thường trong cuộc sống hàng ngày. Có thể nói trong tính đặc thù, riêng tư của ngôn ngữ đời thường, thơ của Wagner lại lan tỏa đại đồng, một thứ lan tỏa im lặng như rễ cỏ dại “Giersch” đến nỗi thành thơ, nên thơ và nặng nợ truyền kiếp vì thơ (cỏ dại Giersch).
Sông Hương xin giới thiệu chùm thơ của ông trong tập “Biến tấu thùng nước mưa” qua bản dịch của Thái Kim Lan.
ich hob den deckel
und blickte ins riesige
auge der amsel.
tôi giở nắp thùng
và nhìn vào trong con-
mắt khổng lồ của chim sáo
*
eine art ofen
im negativ; qualmte nicht,
schluckte die wolken.
một thứ lò sưởi
trong tiêu cực; không phà khói
đã nuốt mây
*
gluckste nur kurz auf,
trat man zornig dagegen,
aber gab nichts preis.
đã chỉ kêu ộc ộc một lúc
giận dữ đá nó
nhưng đừng bỏ
*
als stiege durch sie
die unterwelt hinauf, um
uns zu belauschen.
như tuồng qua đó(1)
địa ngục leo lên, để
nghe ngóng chúng ta
*
silberne orgel-
pfeife, fallrohr: dort hindurch
pumpte das wetter.
bằng bạc ống thổi
đại phong cầm, ống xối: chảy tuồng
qua bên đó
thời tiết bơm
*
einen sommer lang
ganz versunken. dann, bei sturm,
schäumte sie über.
cả một mùa hè dài
chìm lỉm, rồi, có bão
nó trào dâng(2)
*
bleib, sprach das dunkel,
und dein gesicht löst sich auf
wie ein stück zucker.
hãy ở đây, nước đen bảo
và mặt bạn tan ra
như một cục đường
*
alt wie der garten,
duftend wie ein waldsee. stand
da, ein barrel styx.
cũ như khu vườn
thơm như một hồ rừng. đã đứng
đó, một thùng nước sông styx(*)
(*) Theo thần thoại Hy Lạp, Styx vừa là tên một dòng sông và nữ thần của sông, được xem là ranh giới giữa thế giới của người sống và địa ngục của người chết.
*
übervoll im herbst,
lief sie aus in hunderten
schwarzer nacktschnecken.
tràn ứ trong mùa thu
nó chảy ra thành hàng trăm(3)
ốc sên trần đen
*
ein letzter tropfen
vom baum. in der stille, still,
der bebende gong.
một giọt cuối
từ cây. trong lặng yên, yên lặng,
chuông ngân
*
ein grübeln, grübeln;
im winter die erleuchtung
als scheibe von eis.
một trầm tư, tư lự;
trong mùa đông giác ngộ
như lát băng
-----------------
Chú thích
(1), (2), (3) tác giả dùng đại danh từ thay cho danh từ thùng nước, tiếng Đức thuộc giống cái = sie, có thể dịch là nàng, nó, đó - ở đoản thi.
als stiege durch sie
die unterwelt hinauf, um
uns zu belauschen.
như tuồng qua đó(1)
địa ngục leo lên, để
nghe ngóng chúng ta
Nếu dịch là “nàng” thay vì đó, cái ấy, ý nghĩa sẽ bi kịch hơn!)
* Thêm một bài nữa, bài “Versuch über seife”.
ein stück war immer in der nähe,
folgte seinen eigenen phasen,
wurde weniger wie fast alles,
stand dann wieder voll
und leuchtend weiß in seiner schale.
wog wie ein stein in der faust,
schäumte auf, wurde weicher:
man wusch sich von kain zu abel.(1)
einmal vergessen, verwitterte sie
zum rissigen asteroidensplitter,
doch ruht jetzt feucht und glänzend
wie etwas, das vom grund des sees
heraufgetaucht wird, sekundenlang kostbar,
und alle sitzen wir am tisch:
mondloser abend, duftende hände.
(1) Theo Thánh Kinh, Kain và Abel là hai người con đầu tiên của Adam và Eva, Kain người anh cày ruộng đã giết em mình Abel, kẻ chăn dê, vì ganh ghét. Bi kịch con người với tội tổ tông bắt đầu từ Kain. Trong lúc Kain mang đầy tội lỗi, hóa thân của cái ác thì Abel là người được ân sủng nhờ đức hạnh.
(aus: Regentonnenvariationen, Hanser Berlin Verlag, Berlin 2014).
Thử viết về xà phòng
một miếng luôn kề bên
trải qua nhiều giai đoạn
trở nên ít hơn như hầu như mọi thứ
rồi trở lại đầy
và óng ánh trắng trong dĩa
cân nặng như phiến đá trong nắm tay
sủi bọt, thành mềm
người ta rửa từ kain cho đến abel(1)
một lần quên, nó vữa
thành mảnh thiên thạch sù sì
nhưng giờ nó nằm ướt và óng ánh
như thứ gì từ đáy biển
vừa trỗi lên, một giây quý giá
và mọi chúng tôi ngồi ở bàn ăn:
buổi chiều không trăng, đôi tay thơm
(TCSH338/04-2017)
KURT HEYNICKE(Nhà thơ biểu hiện Đức sinh năm 1891)LGT: Kurt Heynicke là nhà thơ biểu hiện nổi tiếng của nước Đức. Ông được giải thưởng thơ “Kleist” vào năm 1913.Bài thơ Vườn thống khổ (Gethsemane), được trích từ Mensch heitsdammerung, do Kurt Pinthus thực hịên, được tái bản nhiều lần. Chúng tôi xin giới thiệu bài thơ đó với bản dịch của dịch giả thơ phương Tây nổi tiếng, Diễm Châu.
ROBERTO JUARROZ(Nhà thơ Achentina 1925 – 1995)LGT: Roberto Juarroz là nhà thơ hiện đại Achentina được thế giới biết đến nhiều hơn cả, có lẽ chỉ sau Jorge – Luis Borges. Ông sinh ngày 5/10/1925 tại Coronel Dorrego thuộc Buenos Aires, và mất ngày 31.3.1995 cũng tại thủ đô Achentina, sau một cuộc đời lưu vong vì chế độ độc tài của quốc gia ông. Ông là tác giả của 15 tập thơ cùng mang tên duy nhất Thơ thẳng đứng (Poesía vertical) chỉ khác nhau ở số thứ tự I đến XV. Ông còn là giáo sự đại học Buenos Aires, chuyên viên truyền thông (thư viện) của Liên Hiệp Quốc đồng giám đốc tạp chí thơ (Poesía), nhà phê bình văn chương ở tạp chí Gaceta (Tucumán), nhà phê bình điện ảnh và kịch ở tạp chí Esto.
TOMAS TRANSTROMER (Thụy Điển)LGT: Tomas Transtromer (1931-) là một trong những nhà thơ hiện đại Thụy Điển nổi tiếng thế giới, từ những năm 50 của thế kỷ XX, ông nhận được các giải thưởng lớn: Pétrarque (Đức) năm 1981, Neustadt Internationl (Hoa Kỳ) năm 1990, giải Bắc Âu (Viện Hàm lâm Thụy Điển) năm 1991, giải Hort Bienek (Đức) 1992. Toàn tập thơ ông được xuất bản năm 1996. Thơ ông được dịch ra 43 thứ tiếng. Ông thường sử dụng thể tự do hoặc thơ văn xuôi với ngôn từ thơ trong sáng nhưng sức mạnh ở chỗ nó hòa quyện được những phúng dụ bác học và những mô tả chính xác về thế giới vũ trụ bật dậy những cảm xúc.
OCTAVIO PAZ (Nobel 1990)Tặng Roman Jakobson LGT: Octavio Paz (1914-1998), nhà thơ Mêhicô nổi tiếng, giải thưởng Miguel de Cervantes 1981, giải T. Eliot 1987, giải Nobel 1990. Tác giả của 5 tập thơ, sau này in lại trong Obra poética (Tác phẩm thơ 1938 - 1988), 23 tập tiểu luận về văn học nghệ thuật. SH xin giới thiệu một bài thơ “tuyên ngôn thơ” của ông, NÓI: LÀM qua bản dịch của dịch giả Dương Tường.
HAROLD PINTER (Nobel 2005)LGT: Harold Pinter, nhà văn Anh, giải thưởng Nobel 2005, được vinh danh với những vở kịch, những kịch bản phim, ông còn là nhà thơ nổi tiếng. Bài diễn văn đọc trong buổi lễ nhận giải Nobel của ông, quyết liệt trong sự chống Mỹ làm Tổng thống Bush rầu lòng. Bài thơ “Thói đồi bại” được giới thiệu dưới đây, vừa mới công bố cách đây ít lâu trên The Guardian ngày 26 - 01 - 2006.
LGT: Harold Pinter, sinh năm 1930 tại London , Anh quốc. Ông là một kịch tác gia, nhưng cũng là nhà thơ, đạo diễn, diễn viên, nhà hoạt động chính trị (ông đặc biệt chống lại sự lạm dụng quyền lực trong quan hệ quốc tế, như chống lại việc NATO đánh bom , Mỹ tấn công ).
SAM HAMIL LGT: Sam Hamil, nhà thơ Mỹ, nổi tiếng với website chống chiến tranh của Mĩ ở , tập hợp 13.000 bài thơ của 12.000 nhà thơ Mỹ và thế giới, đồng thời chủ biên tập thơ “Những nhà thơ chống chiến tranh” (Poets against The War, NXB Nation Books, 2003), thuộc loại best-seller (bán chạy nhất) ở Mỹ.
Nhà thơ, dịch giả Diễm Châu, sinh năm 1937 tại Hải Phòng. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài gòn, sau đó tu nghiệp tại Hoa Kỳ về truyền thông. Trước 1975, ông làm Tổng thư ký Tạp chí Trình Bầy. Định cư tại Strasbourg, Pháp từ 1983 cho đến ngày tạ thế. Ông đã vĩnh viễn ra đi vào sáng ngày 28 tháng 12 năm 2006.
SEAN LUNDELGT: Sean Lunde là một nhân viên của Trung tâm William Joiner. Hiện anh là sinh viên của Đại học Massachusetts Boston, Hoa Kỳ. Đã từng là cựu chiến binh Mỹ tham gia cuộc chiến tranh tại , do vậy Sean Lunde hiểu rõ được thế nào là một cuộc chiến tranh phi nghĩa và các hậu quả xã hội của nó.
ANNE-MARIE LÉVYAnne-Marie Lévy là người Pháp gốc Na-Uy, hiện giảng dạy tiếng Phạn và văn hoá Ấn Độ ở Đại học Bordeaux III. Sau Hiệp định Genève năm 1954, bà cùng chồng làm việc ở Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội trong nhiều năm. Trở về Pháp bà theo dõi cuộc chiến ở Việt và viết sách bằng tiếng Na-Uy để giới thiệu Việt cho độc giả Bắc Âu.Bài thơ này được làm theo thể haiku của Nhật Bản. Thể haiku gồm nhiều đoạn, mỗi đoạn có ba câu lần lượt 5 âm tiết, 7 âm tiết rồi lại 5 âm tiết (5-7-5). Bài dịch ra tiếng Việt tuân thủ qui tắc của haiku.
EILEEN HEANEYLGT: Eileen Heaney là một họa sĩ sống ở Boston, Mỹ. Năm 1997 bà cùng với chồng là ông James Hullett – Triết gia, giáo sư đại học và là giám đốc một nhà xuất bản sách triết - về Việt Nam để nhận bé Frankie từ trại trẻ mồ côi Hội An, Đà Nẵng làm con nuôi.
MYLÈNE CATELLGT: Mylène Catel sinh năm 1966, tại Normandie (Pháp).Thạc sỹ Anh văn và Tiến sỹ Pháp văn.Hiện sống ở Hoa Kỳ - nơi bà giảng dạy văn chương tại Đại học Michigan.Bà đã xuất bản hai tập thơ: "Le Jongleur Fou" (1995), Paris, Editions Caractères; "JC" (1996), Paris, ditions Caractères.
YVES BONNEFOYYves Bonnefoy sinh năm 1923, tại Tours (Pháp).Ông là nhà thơ, nhà văn, nhà dịch thuật và là nhà biên khảo, phê bình văn học nghệ thuật nổi tiếng của nước Pháp, với gần 50 tác phẩm có giá trị về đủ thể loại. Nghĩ về văn học, nghệ thuật, ông quan niệm “đó là cuộc chiến đấu không ngừng để chống lại sự cám dỗ mang tính giáo điều và tư tưởng duy khái niệm”. Vì vậy, thơ Yves Bonnefoy là tiếng nói đa thanh, luôn va đập và sinh thành, luôn giao động giữa hiện thực và siêu thực, giữa vô lý và hợp lý để nói lên mối liên hệ giữa con người và thế giới đang vận động, bất ổn. Như cách thể, để chống lại sự sáo mòn, bảo thủ do sự già nua, hoài nghi và vô cảm của con người. HỒ THẾ HÀ
TANG HẰNG XƯƠNG (Trung Quốc)LTS: Sinh năm 1941. Đã xuất bản 6 tập thơ. Thơ Tang Hằng Xương có những từ ngữ, hình ảnh, ý tưởng... rất kỳ lạ và táo bạo; đã được dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hàn và gần đây là tiếng Việt (báo Văn nghệ, Tạp chí Văn học nước ngoài - H.D.dịch và giới thiệu). Những bài thơ dưới đây lấy từ tập thơ Nhớ cha mẹ (Tang Hằng Xương - Hoài thân thi tập) in lần thứ nhất 1999, in lần thứ hai 2001. (Tang Hằng Xương mồ côi mẹ năm mười hai tuổi).
LTS: Vlađimir Maiakôvxki là “lá cờ đầu của thơ ca Tháng Mười Nga”. Nhân kỷ niệm 85 năm Cách mạng tháng Mười Nga, chúng tôi mời nhà phê bình - giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, một chuyên gia về Maiakôvxki, viết bài về tiếng thơ của Maia trong cuộc sống và thế giới ngày hôm nay. Nhà phê bình đã gửi cho chúng tôi bản dịch một bài thơ của Maia và trình bày mấy ý kiến hết sức ngắn gọn.
Margaret Atwoods là một trong số nhà thơ viết bằng tiếng Anh hàng đầu ở . Sinh năm 1939. Bà đã xuất bản trên 10 tập thơ, trên 10 tiểu thuyết, một số sách phê bình và sách cho trẻ em, đã nhận nhiều giải thưởng và bằng cấp danh dự. Gần nhất là Giải Pulitzer 2001 về tiểu thuyết. Thơ M.Atwoods đầy tinh thần phản kháng, trầAn trụi và khốc liệt khi cần vạch trần sự thật về thân phận người đàn bà ở khắp nơi trên thế giới, một mặt lại vỗ về nâng giấc che chở đối với người mình yêu. Quả là một nữ tính của thế kỷ. HOÀNG HƯNG chuyển ngữ từ nguyên bản.
LANGSTON HUGHESLGT: Langston Hughes (1902-1967) là một trong những cây viết chủ lực của phong trào văn học nghệ thuật của người Mỹ gốc Phi - châu trong thập niên 1920, mệnh danh là phong trào Phục Hưng Harlem (Harlem Renaissance)- một nỗ lực nhằm cổ động lòng tự hào về màu da và văn hóa da đen.
LTS: Robert Creeley sinh năm 1926, có một cuộc đời nhiều biến động. Hai lần bỏ học đại học giữa chừng, hai lần ly hôn, hai lần sang làm việc ở các nước thế giới thứ ba (năm 1944 lái xe cứu thương trong lực lượng American Field Service ở Ấn Độ và Miến Điện.
...Thế nhưng trên đôi tai hoá đáSự im lặng vẫn thét gàoVang dội trong năm tháng với những thanh âm thịnh nộ...
LTS: Werner Lambersy thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ đương đại của Pháp. Thơ ông là sự kết hợp thần tình giữa lối tư duy luận lý sắc sảo cùng khả năng trực cảm cực kỳ tinh tế. Điều đó khiến cho thơ W.Lambersy làm hiện hình được bản chất đời sống ở những nơi chốn mong manh nhất. Dưới con mắt nhà thơ, cái đẹp luôn biến ảo, không dừng lại, lần theo dấu vết của chúng, bạn sẽ khám phá thấy những chân lý hoàn toàn bất ngờ. Những bài thơ dưới đây, chúng tôi rút ra từ một tập thơ xuất bản năm 1998 của W.Lambersy do trung tâm sách quốc gia của Pháp đỡ đầu và ấn hành.