Ogiwara Seisensui - Murakami Kijo - Saito Sanki - Ozaki Hosai
Ảnh: tư liệu
Thơ haiku tự do Nhật Bản khởi đầu với Kawahigashi Hekigoto (河東碧梧桐) (1873 - 1937) và sau đó Ogiwara Seisensui (荻原 井泉水) (1884 - 1976), Ozaki Hosai (尾崎 放哉) (1885 - 1926), Taneda Santoka (種田 山頭火) (1882 - 1940) tiếp nối. Đặc trưng của phái thơ này là không cần đến quý ngữ và không phải câu nệ vào hình thức 5/7/5 như haiku truyền thống. Ozaki Hosai có thể được xem là nhà thơ thành công nhất của trường phái này với nhiều bài haiku được đánh giá là đặc sắc khó quên. Dưới đây là chùm haiku tự do của Ogiwara Seisensui, Murakami Kijo, Saito Sanki và Ozaki Hosai. Bàng bạc trong mỗi bài thơ là niềm cô đơn của thân phận con người mà chúng ta có thể cảm nhận được mặc dù bị giới hạn bởi ngôn ngữ. Nhiều bài thơ vô cùng đơn giản nhưng tinh tế sâu sắc mà nếu như biết tiếng Nhật, đọc qua một lần chúng ta có thể nhớ được ngay. |
OGIWARA SEISENSUI
空をあゆむ朗朗と月ひとり
Đi qua trời thẳm
Vầng trăng kia
Lúc nào cũng sáng một mình
こだま
「おーい」と淋しい人
「おーい」と淋しい山
Tiếng vọng
“Này”, người cô đơn nói
“Này”, núi cô độc đáp lời
佛を信ず麦の穂の青きしんじつ
Tin vào Phật
Sự thật màu xanh
Nơi ngọn lúa mạch
MURAKAMI KIJO
冬蜂の死にどころなく歩きけり
Con ong mùa đông
Mải miết bước đi
Vì không còn nơi nào để chết
春雨や確かに見たる石の精
Tôi đã chắc thấy
Tinh thần của đá
Trong cơn mưa xuân
浅間山の 煙出て見よ 今朝の月
Định ngước mắt nhìn
Núi Asama mờ khói
Gặp vầng trăng sớm mai
SAITO SANKI
春園の ホースむくむく 水通す
Khu vườn nhà
Ống nước chảy
Róc rách mùa xuân
仰ぎ飲む ラムネが天露 さくら散る
Ngửa mặt uống nước chanh
Hoa anh đào rơi
Như sương xuống từ trời
秋の暮 大漁の骨を 海が引く
Trong buổi chiều thu
Bao nhiêu là xương cá
Sóng đánh dạt vào bờ
春を病み 松の根つ子も 見あきたり
Bạo bệnh mùa xuân,
nhìn mãi gốc thông,
đến chán chường mệt mỏi
OZAKI HOSAI
山に登れば淋しい村がみんな見える
Lên núi cao sẽ thấy
Tất cả mọi người
Trong ngôi làng cô đơn
壁の新聞の女はいつも泣いて居る
Người con gái
Trên tờ báo dán tường
Lúc nào cũng khóc
月夜の葦が折れとる
Đám lau sậy
Gãy
Trong đêm trăng
春の山のうしろから煙が出だした
Khói dâng cao
Phía sau ngọn núi mùa xuân
一人の道が暮れて来た
Con đường một mình
Ngả bóng
Hoàng hôn
長雨あまる小窓で杏落つるばかり
Mưa dằng dặc
Ngoài song cửa nhỏ
Chỉ có trái hạnh rơi
船は皆出てしまひ雪の山山なり
Tất cả con tàu ra khơi
Còn lại
Những ngọn núi phủ đầy tuyết
井戸の暗さにわが顔を見出す
Tôi tìm mặt mình
Nơi đáy tối
Giếng nước sâu
たばこが消えて居る淋しさをなげすてる
Điếu thuốc đã tàn
Tôi quăng ném đi
Sự hiu quạnh của mình
やせたからだを窓に置き船の汽笛
Lê tấm thân gầy
Đến bên cửa sổ
Nghe tiếng còi tàu ra khơi
(TCSH419/01-2024)
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)