Louise Glück - Jaroslav Seifert - Wislawa Szymborska - Pablo Neruda - Boris Pasternak
Louise Glück - Ảnh: internet
LOUISE GLÜCK
(Giải Nobel Văn học 2020)
Cái nhìn hoang dã
Tận cùng đau khổ của tôi
đã có sẵn một cánh cửa.
Hãy nghe tôi nói đây: cái mà bạn gọi là cái chết - tôi nhớ rõ.
Trên đầu chúng ta, những tiếng động, những nhành thông chuyển mình.
Rồi chả còn gì. Mặt trời yếu lả
nhấp nháy nhạt nhòa trên bề mặt hanh khô.
Thật kinh hoàng để sinh tồn
khi ý thức
bị vùi chôn trong lòng đất tối thẳm.
Sau đó, chấm dứt: điều mà bạn sợ hãi
là một linh hồn không thể thốt lên,
mọi chuyện chấm dứt đột ngột,
mảnh đất cứng nhắc khẽ cựa mình.
Và những gì tôi trở thành
chính là mấy cánh chim lao đi trong bụi cây lấp thấp.
Bạn không nhớ nổi
hành trình từ thế giới bên kia
tôi nói với bạn rằng tôi có thể nhắc lại: bất cứ thứ gì
quay trở lại từ sự lãng quên, rồi sẽ quay trở lại
để tìm thấy một tiếng nói:
từ trung tâm cuộc đời tôi hiện ra
một con suối khổng lồ, những bóng hình thăm thẳm
rọi xuống mặt nước biển màu thiên thanh.
Mơ ước
Anh nhớ dạo đó anh đã từng mơ ước?
Tôi từng ước lắm chuyện trên đời.
Lần đó tôi đã dối anh
về cánh bướm. Tôi luôn tự hỏi
anh ước điều gì.
Anh nghĩ tôi ước điều gì?
Tôi chả rõ. Rằng tôi sẽ quay lại,
rằng cuối cùng bằng cách này hay cách khác
chúng ta sẽ ở bên nhau.
Tôi đã ước ao có trong tay những gì tôi luôn ao ước.
Tôi đã ước một bài thơ khác.
Giao lộ
Cơ thể ta ơi, giờ chúng ta sẽ không còn đồng hành cùng nhau lâu hơn nữa
Ta bắt đầu cảm thấy một nỗi đau mới mẻ ở nơi ngươi, rất thô sơ và xa lạ,
như những gì ta nhớ về tình yêu khi ta còn rất trẻ -
tình yêu thường hay ngu ngốc về mục tiêu
nhưng không bao giờ khờ khạo trong lựa chọn và cường độ
Cứ đòi hỏi trước quá nhiều - quá nhiều mà không thể hứa hẹn được điều chi
Tâm hồn ta đã từng quá sợ hãi, quá hung bạo;
tha thứ cho sự hăm hở của nó đi
Như thể nó là linh hồn kia, bàn tay ta di chuyển trên cơ thể ta
một cách rất thận trọng,
chẳng mong chi sự xúc phạm
nhưng cuối cùng, hăng hái thể hiện thực chất:
chính ra, ta sẽ không nhớ cõi đời này
mà ta nhớ ngươi.
Trần Như Luận dịch
JAROSLAV SEIFERT
(Nhà thơ Czech - Giải Nobel Văn học 1984)
Đoạn rời một lá thư
Mưa suốt đêm tạt vào cửa sổ
Không thể nào ngủ
Tôi trở dậy bật đèn
Ngồi viết một lá thư.
Nếu tình yêu có thể bay xa
Điều tất nhiên chẳng xảy ra
Và nó cũng không mấy khi ở gần mặt đất
Hẳn nó sẽ cảm thấy mê say được ấp ủ
Trong cơn gió nhẹ thoảng qua.
Nhưng giống như những con ong giận dữ
Dồn những chiếc hôn ghen tị
Trên cơ thể con ong cái ngọt ngào
Và một bàn tay nóng vội
Níu chặt những gì có thể với tới
Và lòng khao khát thì chẳng hề suy giảm
Ngay cả cái chết cũng có thể xảy ra
trong khoảnh khắc hân hoan
mà không hoảng sợ
Nhưng nào ai đã một lần tính được
Bao nhiêu yêu thương gởi gắm
Trong đôi vòng tay rộng mở.
Những lá thư gửi cho phụ nữ
Tôi vẫn chuyển qua cánh chim bồ câu
Ý thức tôi vẫn luôn sáng tỏ
Chẳng bao giờ nhờ cậy diều hâu
Và cũng không nhờ chim ó đâu!
Dưới ngòi bút tôi thơ không còn bay nhảy
Và như giọt lệ đọng lại nơi khóe mắt
Con chữ còn treo lại đằng sau.
Và cuộc đời tôi, đến thời kỳ cuối,
Giờ chỉ là chuyến hành trình hối hả trên con tàu:
Tôi đứng trong toa, bên cửa sổ
Ngày qua ngày
Chạy ngược về quãng thời gian qua
Để lẫn vào đám bụi mờ u sầu
Có nhiều lúc tôi bất lực nắm lấy
Cái phanh cấp cứu của con tàu.
Có lẽ sẽ thêm một lần tôi bắt gặp
Nụ cười một người phụ nữ,
Đọng lại nơi mí mắt
Như một cánh hoa héo hắt.
Có lẽ tôi sẽ còn được phép
Gởi đến đôi mắt nàng ít nhất là một nụ hôn
Trước khi chúng lạc mất trong bóng tối đen.
Có lẽ sẽ thêm một lần tôi nhìn thấy
Một mắt cá chân thon nhỏ
Nổi lên như viên ngọc
Toát ra vẻ dịu dàng ấm áp,
Khiến tôi gần như nghẹt thở vì khát khao.
Bao nhiêu điều con người đành bỏ lại phía sau
Khi chuyến tàu dửng dưng tiến lại gần
Ga Quên Lãng
Với khu vườn lan nhật quang lung linh mờ ảo
Trong hương hoa mọi thứ đều bị lãng quên
Kể cả tình yêu nhân thế.
Đây đã là ga cuối:
Con tàu không đi xa hơn.
WISLAWA SZYMBORSKA
(Nhà thơ Ba Lan - Giải Nobel Văn học 1996)
Không có gì hai lần
Không có gì xảy ra hai lần
Thực tế mọi chuyện đều đúng vậy
Ta sinh ra chỉ tình cờ thôi đấy
Rồi chết đi chẳng tính trước được đâu.
Cho dù chỉ là người lười nhác
Và tối dạ nhất ở trên đời
Ta chẳng thể nào học lại lớp:
Khóa học chỉ mở một lần thôi.
Không ngày nào mô phỏng ngày hôm trước
Không có hai đêm trao cùng niềm hạnh phúc
Và cũng sẽ không làm sao có được
Hai nụ hôn, hai tia nhìn giống hệt nhau
Ngày hôm qua em nghe như có tiếng
Ai nhắc tên anh, bất chợt, khác thường
Em cảm thấy như bông hồng chao liệng
Rơi vào phòng, ngan ngát mùi hương.
Hôm nay đây khi ta ở gần nhau
Em mải nhìn lên tường lặng lẽ
Một đóa hồng. Có phải là như thế?
Một bông hoa? Hay là viên đá, biết đâu?
Sao ta cứ nhìn ngày tháng lướt trôi
Với sợ hãi, với âu lo vô ích?
Rất thường tình, mọi thứ rồi sẽ mất,
Ngày hôm nay còn đâu nữa đến mai.
Nở nụ cười, và ôm nhau thắm thiết
Ta cố tìm sự thân thiện hòa đồng
Dẫu thực lòng chúng ta vẫn từng biết
Mình khác nhau như hai giọt nước trong.
PABLO NERUDA
(Nhà thơ Chile - Giải Nobel Văn học 1971)
Tiếng em cười
Nếu em muốn cứ lấy đi không cho anh thức ăn,
Lấy đi cả không khí, nhưng
Đừng lấy đi tiếng em cười khỏi anh.
Đừng lấy đi đóa hồng,
Nụ hoa em đã hái
Giọt nước bất chợt
Vui mừng bắn tóe ra
Con sóng bạc
Tình cờ hiển lộ nơi em.
Cuộc đấu tranh gian lao và anh trở về,
Với đôi mắt mệt mỏi
Vì nhiều lúc đã phải nhìn
Trái đất chẳng hề thay đổi
Nhưng khi tiếng em cười
Vang vọng lên không trung tìm kiếm anh
Nó đã mở ra cho anh tất cả
Cánh cửa của nhân sinh.
Em yêu, trong giờ phút đen tối nhất,
Tiếng em cười bật ra,
Và nếu bất chợt
Em thấy máu anh nhuộm bẩn
Gạch đá con đường,
Thì em hãy cười lên, vì tiếng em cười
Sẽ là thanh kiếm mới
Trong tay anh.
Bên cạnh biển trong mùa thu,
Tiếng em cười hẳn sẽ làm cuộn lên
Dập dồn sóng bạc.
Và, vào mùa xuân, em yêu,
Anh muốn tiếng em cười giống như
Đóa hoa anh hằng chờ đợi,
Đóa hồng xanh vọng tưởng quê hương.
Em hãy cười nhạo buổi tối,
Cười ban ngày, cười ánh trăng,
Hãy cười nhạo những con đường
Ngoằn ngoèo trên đảo,
Hãy cười nhạo chàng trai vụng về
Đang yêu em.
Nhưng khi anh
Mở mắt rồi nhắm lại,
Khi anh bước ra đi,
Khi anh bước trở về,
Em có thể khước từ anh thức ăn, không khí,
Ánh sáng, mùa xuân,
Nhưng đừng bao giờ lấy đi tiếng em cười,
Vì anh sẽ chết mất, em ơi!
BORIS PASTERNAK
(Nhà thơ Nga - Giải Nobel Văn học 1958)
Mùa thu
Anh đành để cho gia đình phân tán
Bao người thân thiết lưu lạc khắp nơi
Một lần nữa, nỗi cô đơn dằng dặc
Vây bủa hồn anh, tràn ngập đất trời.
Túp lều tranh, em và anh ẩn náu
Khu rừng hoang vu không một bóng người
Lối cũ đường mòn, như lời bài hát,
Cỏ dại lan tràn phủ khắp nơi nơi.
Chỉ chúng ta thôi đang ngồi ở đấy
Bức tường gỗ mục buồn bã nhìn ta
Dẫu không hứa phải vượt qua trở ngại
Ta vẫn thực lòng chấp nhận chia xa.
Ta vẫn bên nhau qua bao giờ khắc
Anh đọc sách và em bận vá may
Khi ta ngừng, thôi không hôn nhau nữa
Ta nào hay đêm đã chuyển sang ngày.
Hỡi lá rừng, hãy cứ rơi xào xạc
Lộng lẫy hơn và cũng kiêu sa hơn.
Trong chiếc cốc đắng cay ngày tháng cũ
Sầu khổ hôm nay hãy rót cho tràn.
Tất cả quyến luyến, hân hoan, say đắm,
Ta tan vào trong ầm ĩ mùa thu
Hãy vùi đắm trong tiếng thu xào xạc
Cứ lặng im hay có thể điên rồ!
Em ngã vào vòng tay anh âu yếm
Tấm thân son trong vải lụa óng mềm
Em khẽ lắc cho xiêm y trút xuống
Như cây rừng trút hết lá rất êm.
Em hạnh phúc trên đường anh khổ luỵ
Khi cuộc sống tồi hơn cả thương đau
Và can đảm là cội nguồn cái đẹp
Chính là điều đưa ta đến với nhau!
Việt Phương dịch
(TCSH382/12-2020)
KURT HEYNICKE(Nhà thơ biểu hiện Đức sinh năm 1891)LGT: Kurt Heynicke là nhà thơ biểu hiện nổi tiếng của nước Đức. Ông được giải thưởng thơ “Kleist” vào năm 1913.Bài thơ Vườn thống khổ (Gethsemane), được trích từ Mensch heitsdammerung, do Kurt Pinthus thực hịên, được tái bản nhiều lần. Chúng tôi xin giới thiệu bài thơ đó với bản dịch của dịch giả thơ phương Tây nổi tiếng, Diễm Châu.
ROBERTO JUARROZ(Nhà thơ Achentina 1925 – 1995)LGT: Roberto Juarroz là nhà thơ hiện đại Achentina được thế giới biết đến nhiều hơn cả, có lẽ chỉ sau Jorge – Luis Borges. Ông sinh ngày 5/10/1925 tại Coronel Dorrego thuộc Buenos Aires, và mất ngày 31.3.1995 cũng tại thủ đô Achentina, sau một cuộc đời lưu vong vì chế độ độc tài của quốc gia ông. Ông là tác giả của 15 tập thơ cùng mang tên duy nhất Thơ thẳng đứng (Poesía vertical) chỉ khác nhau ở số thứ tự I đến XV. Ông còn là giáo sự đại học Buenos Aires, chuyên viên truyền thông (thư viện) của Liên Hiệp Quốc đồng giám đốc tạp chí thơ (Poesía), nhà phê bình văn chương ở tạp chí Gaceta (Tucumán), nhà phê bình điện ảnh và kịch ở tạp chí Esto.
TOMAS TRANSTROMER (Thụy Điển)LGT: Tomas Transtromer (1931-) là một trong những nhà thơ hiện đại Thụy Điển nổi tiếng thế giới, từ những năm 50 của thế kỷ XX, ông nhận được các giải thưởng lớn: Pétrarque (Đức) năm 1981, Neustadt Internationl (Hoa Kỳ) năm 1990, giải Bắc Âu (Viện Hàm lâm Thụy Điển) năm 1991, giải Hort Bienek (Đức) 1992. Toàn tập thơ ông được xuất bản năm 1996. Thơ ông được dịch ra 43 thứ tiếng. Ông thường sử dụng thể tự do hoặc thơ văn xuôi với ngôn từ thơ trong sáng nhưng sức mạnh ở chỗ nó hòa quyện được những phúng dụ bác học và những mô tả chính xác về thế giới vũ trụ bật dậy những cảm xúc.
OCTAVIO PAZ (Nobel 1990)Tặng Roman Jakobson LGT: Octavio Paz (1914-1998), nhà thơ Mêhicô nổi tiếng, giải thưởng Miguel de Cervantes 1981, giải T. Eliot 1987, giải Nobel 1990. Tác giả của 5 tập thơ, sau này in lại trong Obra poética (Tác phẩm thơ 1938 - 1988), 23 tập tiểu luận về văn học nghệ thuật. SH xin giới thiệu một bài thơ “tuyên ngôn thơ” của ông, NÓI: LÀM qua bản dịch của dịch giả Dương Tường.
HAROLD PINTER (Nobel 2005)LGT: Harold Pinter, nhà văn Anh, giải thưởng Nobel 2005, được vinh danh với những vở kịch, những kịch bản phim, ông còn là nhà thơ nổi tiếng. Bài diễn văn đọc trong buổi lễ nhận giải Nobel của ông, quyết liệt trong sự chống Mỹ làm Tổng thống Bush rầu lòng. Bài thơ “Thói đồi bại” được giới thiệu dưới đây, vừa mới công bố cách đây ít lâu trên The Guardian ngày 26 - 01 - 2006.
LGT: Harold Pinter, sinh năm 1930 tại London , Anh quốc. Ông là một kịch tác gia, nhưng cũng là nhà thơ, đạo diễn, diễn viên, nhà hoạt động chính trị (ông đặc biệt chống lại sự lạm dụng quyền lực trong quan hệ quốc tế, như chống lại việc NATO đánh bom , Mỹ tấn công ).
SAM HAMIL LGT: Sam Hamil, nhà thơ Mỹ, nổi tiếng với website chống chiến tranh của Mĩ ở , tập hợp 13.000 bài thơ của 12.000 nhà thơ Mỹ và thế giới, đồng thời chủ biên tập thơ “Những nhà thơ chống chiến tranh” (Poets against The War, NXB Nation Books, 2003), thuộc loại best-seller (bán chạy nhất) ở Mỹ.
Nhà thơ, dịch giả Diễm Châu, sinh năm 1937 tại Hải Phòng. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài gòn, sau đó tu nghiệp tại Hoa Kỳ về truyền thông. Trước 1975, ông làm Tổng thư ký Tạp chí Trình Bầy. Định cư tại Strasbourg, Pháp từ 1983 cho đến ngày tạ thế. Ông đã vĩnh viễn ra đi vào sáng ngày 28 tháng 12 năm 2006.
SEAN LUNDELGT: Sean Lunde là một nhân viên của Trung tâm William Joiner. Hiện anh là sinh viên của Đại học Massachusetts Boston, Hoa Kỳ. Đã từng là cựu chiến binh Mỹ tham gia cuộc chiến tranh tại , do vậy Sean Lunde hiểu rõ được thế nào là một cuộc chiến tranh phi nghĩa và các hậu quả xã hội của nó.
ANNE-MARIE LÉVYAnne-Marie Lévy là người Pháp gốc Na-Uy, hiện giảng dạy tiếng Phạn và văn hoá Ấn Độ ở Đại học Bordeaux III. Sau Hiệp định Genève năm 1954, bà cùng chồng làm việc ở Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội trong nhiều năm. Trở về Pháp bà theo dõi cuộc chiến ở Việt và viết sách bằng tiếng Na-Uy để giới thiệu Việt cho độc giả Bắc Âu.Bài thơ này được làm theo thể haiku của Nhật Bản. Thể haiku gồm nhiều đoạn, mỗi đoạn có ba câu lần lượt 5 âm tiết, 7 âm tiết rồi lại 5 âm tiết (5-7-5). Bài dịch ra tiếng Việt tuân thủ qui tắc của haiku.
EILEEN HEANEYLGT: Eileen Heaney là một họa sĩ sống ở Boston, Mỹ. Năm 1997 bà cùng với chồng là ông James Hullett – Triết gia, giáo sư đại học và là giám đốc một nhà xuất bản sách triết - về Việt Nam để nhận bé Frankie từ trại trẻ mồ côi Hội An, Đà Nẵng làm con nuôi.
MYLÈNE CATELLGT: Mylène Catel sinh năm 1966, tại Normandie (Pháp).Thạc sỹ Anh văn và Tiến sỹ Pháp văn.Hiện sống ở Hoa Kỳ - nơi bà giảng dạy văn chương tại Đại học Michigan.Bà đã xuất bản hai tập thơ: "Le Jongleur Fou" (1995), Paris, Editions Caractères; "JC" (1996), Paris, ditions Caractères.
YVES BONNEFOYYves Bonnefoy sinh năm 1923, tại Tours (Pháp).Ông là nhà thơ, nhà văn, nhà dịch thuật và là nhà biên khảo, phê bình văn học nghệ thuật nổi tiếng của nước Pháp, với gần 50 tác phẩm có giá trị về đủ thể loại. Nghĩ về văn học, nghệ thuật, ông quan niệm “đó là cuộc chiến đấu không ngừng để chống lại sự cám dỗ mang tính giáo điều và tư tưởng duy khái niệm”. Vì vậy, thơ Yves Bonnefoy là tiếng nói đa thanh, luôn va đập và sinh thành, luôn giao động giữa hiện thực và siêu thực, giữa vô lý và hợp lý để nói lên mối liên hệ giữa con người và thế giới đang vận động, bất ổn. Như cách thể, để chống lại sự sáo mòn, bảo thủ do sự già nua, hoài nghi và vô cảm của con người. HỒ THẾ HÀ
TANG HẰNG XƯƠNG (Trung Quốc)LTS: Sinh năm 1941. Đã xuất bản 6 tập thơ. Thơ Tang Hằng Xương có những từ ngữ, hình ảnh, ý tưởng... rất kỳ lạ và táo bạo; đã được dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hàn và gần đây là tiếng Việt (báo Văn nghệ, Tạp chí Văn học nước ngoài - H.D.dịch và giới thiệu). Những bài thơ dưới đây lấy từ tập thơ Nhớ cha mẹ (Tang Hằng Xương - Hoài thân thi tập) in lần thứ nhất 1999, in lần thứ hai 2001. (Tang Hằng Xương mồ côi mẹ năm mười hai tuổi).
LTS: Vlađimir Maiakôvxki là “lá cờ đầu của thơ ca Tháng Mười Nga”. Nhân kỷ niệm 85 năm Cách mạng tháng Mười Nga, chúng tôi mời nhà phê bình - giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, một chuyên gia về Maiakôvxki, viết bài về tiếng thơ của Maia trong cuộc sống và thế giới ngày hôm nay. Nhà phê bình đã gửi cho chúng tôi bản dịch một bài thơ của Maia và trình bày mấy ý kiến hết sức ngắn gọn.
Margaret Atwoods là một trong số nhà thơ viết bằng tiếng Anh hàng đầu ở . Sinh năm 1939. Bà đã xuất bản trên 10 tập thơ, trên 10 tiểu thuyết, một số sách phê bình và sách cho trẻ em, đã nhận nhiều giải thưởng và bằng cấp danh dự. Gần nhất là Giải Pulitzer 2001 về tiểu thuyết. Thơ M.Atwoods đầy tinh thần phản kháng, trầAn trụi và khốc liệt khi cần vạch trần sự thật về thân phận người đàn bà ở khắp nơi trên thế giới, một mặt lại vỗ về nâng giấc che chở đối với người mình yêu. Quả là một nữ tính của thế kỷ. HOÀNG HƯNG chuyển ngữ từ nguyên bản.
LANGSTON HUGHESLGT: Langston Hughes (1902-1967) là một trong những cây viết chủ lực của phong trào văn học nghệ thuật của người Mỹ gốc Phi - châu trong thập niên 1920, mệnh danh là phong trào Phục Hưng Harlem (Harlem Renaissance)- một nỗ lực nhằm cổ động lòng tự hào về màu da và văn hóa da đen.
LTS: Robert Creeley sinh năm 1926, có một cuộc đời nhiều biến động. Hai lần bỏ học đại học giữa chừng, hai lần ly hôn, hai lần sang làm việc ở các nước thế giới thứ ba (năm 1944 lái xe cứu thương trong lực lượng American Field Service ở Ấn Độ và Miến Điện.
...Thế nhưng trên đôi tai hoá đáSự im lặng vẫn thét gàoVang dội trong năm tháng với những thanh âm thịnh nộ...
LTS: Werner Lambersy thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ đương đại của Pháp. Thơ ông là sự kết hợp thần tình giữa lối tư duy luận lý sắc sảo cùng khả năng trực cảm cực kỳ tinh tế. Điều đó khiến cho thơ W.Lambersy làm hiện hình được bản chất đời sống ở những nơi chốn mong manh nhất. Dưới con mắt nhà thơ, cái đẹp luôn biến ảo, không dừng lại, lần theo dấu vết của chúng, bạn sẽ khám phá thấy những chân lý hoàn toàn bất ngờ. Những bài thơ dưới đây, chúng tôi rút ra từ một tập thơ xuất bản năm 1998 của W.Lambersy do trung tâm sách quốc gia của Pháp đỡ đầu và ấn hành.