Thiện và ác trong chính trị gia Tào Tháo

09:48 12/09/2008
TÂM VĂNNgười xưa có câu: “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính” (Chỉ theo điều thiện thì không đủ để làm chính trị). Câu nói đó xem ra rất đúng với Tào Tháo.

Khi đang bị truy nã vì mưu sát Đổng Trác bất thành, Tào Tháo vào tá túc nhà người quen. Gia chủ sai gia nhân làm lợn đãi khách. Gia nhân mài dao để làm thịt lợn, Tào Tháo nghi mài dao để mưu hại mình nên giết chết gia nhân. Khi biết được thiện ý của chủ nhà, việc đã lỡ vì phạm tội giết người, Tào Tháo giết sạch cả nhà để khỏi có kẻ cấp báo, cáo quan cho dễ bề trốn thoát với câu nói nổi tiếng ích kỷ, gian hùng mà người đời thường nhắc tới là thà mình phụ người chứ không để người phụ mình.
Đến lúc thành danh, giữ chức Thừa tướng, kẻ hầu người hạ quanh mình, khi uống rượu say, nằm không đắp chăn mà khí trời thì rét, người hầu thấy vậy vào muốn kéo chăn đắp cho chủ, biết được thiện ý mà vẫn rút kiếm chém chết người hầu để thị uy, cảnh báo cho mọi người rằng Tào Thừa tướng đâu phải là người ai muốn đến gần cũng được.
Lúc quân bị thiếu lương, Tào Tháo sai làm cái hộc nhỏ hơn để đong ít lại nhằm chia cho đều khắp trong ba quân. Khi quân sĩ phát hiện, xôn xao kêu đói thì Tào Tháo gọi quan coi lương vào và động viên rằng: ngươi hãy chịu chết đi để vợ con ngươi ta sẽ nuôi, còn ngươi thì được dựng miếu để thờ. Quan coi lương biết mình bị đem làm vật hy sinh, nhưng bấm bụng, nước mắt tuôn trào, rồi cúi lạy “tạ ơn Thừa tướng”.
Trên đây là một, vài trong vô số chuyện mà Tào Tháo đã hành xử trong cuộc đời làm chính trị.
Nếu không giết hết cả nhà người quen, thì ai bảo đảm rằng không có kẻ cáo quan và liệu Tào Tháo có thoát được trên đường đào tẩu để tồn tại với đời mà tiếp tục hoàn thành chí nguyện? Tào Tháo khi làm Thừa tướng, quyền cao chức trọng, dưới một người mà trên cả vạn vạn người. Điều hành chính sự độc đoán, chuyên quyền, lấn át cả vua. Có nhiều người hiệp lực, đồng tâm, cúi đầu phục mệnh, nhưng cũng có lắm kẻ bài xích, căm thù, âm mưu lật đổ. Thuốc độc, thích khách luôn rình rập quanh mình, không chém chết một người hầu để thị uy thì liệu có răn đe được nhiều kẻ đang rắp tâm ám hại. Nếu không biết lừa dối ba quân trong hoàn cảnh thiếu lương ở chốn sa trường và không giết một người để rước tội cho mình thì ai lường được là sẽ không có binh biến xảy ra? Tướng cầm quân liệu có thoát được cảnh da ngựa bọc thây và chính sự sẽ như thế nào nếu được trao về tay kẻ khác.
“Tòng thiện bất túc” (chỉ có theo điều thiện thôi thì không đủ) “dĩ vi chính” (để làm chính trị), điều đó cũng có nghĩa là người làm chính trị trong một hoàn cảnh nhất định, khi cần thiết cũng phải biết làm điều ác, nếu điều ác chỉ đến với số thiểu để cho điều thiện được đến với số đa thì điều ác đó biến thành điều thiện.
Giết người là ác, giết cả gia đình ân nhân thì quá nhẫn tâm; giết người hầu của mình, giết cả tướng dưới quyền mà biết chắc họ đều là những người vô tội thì thật là đại ác, nhưng cái chết của họ được xem như một sự hy sinh cho tồn tại của một con người đang nuôi chí lớn, một vị Thừa tướng đầu triều, thống soái của ba quân và nếu họ không làm vật hy sinh thì những diễn biến xấu có thể xảy ra và ảnh hưởng đến hàng vạn sinh linh mà chưa ai lường trước được.
Một chính trị gia lỗi lạc, phải biết “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái bất biến của Tào Tháo thuở ban đầu, trước hết là phải tồn tại, vươn lên nắm quyền lực, diệt trừ gian tặc, giúp nước, phò vua. Rồi cái bất biến tiếp theo là bình Tây Thục, phá Đông Ngô, quy tụ giang sơn về một mối. Để “dĩ bất biến” Tào Tháo đã làm những gì có thể, giết cả nhà ân nhân, giết người hầu là để cho tồn tại của bản thân; giết quan coi lương là để ổn định ba quân trong tình thế hiểm nguy trên đường trận mạc. Tất cả những hành vi mà Tào Tháo đã làm chẳng qua là “ứng vạn biến” mà một người có chí lớn, một vị tướng cầm quân, có tài thao lược phải biết và buộc phải làm trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc mà mục đích cuối cùng là định quốc, an dân, đem lại hạnh phúc yên bình cho trăm họ.
Trước và sau Tào Tháo, những chính trị gia nổi tiếng, kiểu này hay kiểu khác có khi còn ác hơn cả cách hành xử của Thừa tướng họ Tào. Võ Tắc Thiên, nữ Hoàng đế nổi tiếng tài sắc, hoang dâm, đã nhẫn tâm giết không biết bao nhiêu con cháu của mình để chiếm đoạt và bảo vệ ngai vàng, ngự trị ngôi Thiên tử. Từ Hy Thái hậu, ngồi sau rèm mà điều hành chính sự cũng đã dùng không biết bao nhiêu thủ đoạn, âm mưu để loại trừ những người không ý hợp, tâm đầu. Bởi tầm chính trị quốc gia và tuỳ bối cảnh lịch sử của mỗi thời, nên cái ác và cái thiện trong những con người đó như quyện vào nhau, vì cái “dĩ bất biến” là lợi và quyền của chính bản thân họ, lợi ích của thần dân mà họ đang chăn dắt, liên quan đến sự tồn vong của đất nước mà họ đang cai quản, nên mọi sự “ứng vạn biến” của họ các sử gia rất dễ cảm thông.
 Nhưng đáng trách là các quan lại địa phương, những kẻ thừa hành mệnh lệnh, thực thi chính sách cai trị của triều đình, lắm người đã ngộ nhận mình cũng là những chính trị gia, ra vẻ thông hiểu nghĩa lý của “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính”, nên tự cho mình được quyền hành xử cái “Tòng thiện bất túc” mà tác oai, tác quái, thủ đoạn, âm mưu, gây bè kéo cánh, thanh trừng, hạ bệ lẫn nhau để tranh quyền đoạt lợi, vun quén cho cá nhân, nhằm vinh thân phì da chứ chẳng phải vì bản quán, quê hương, vì dân tộc, quốc gia nào cả.
Ngẫm chuyện xưa để lý giải việc đời. Đâu phải dễ luận bàn thiện ác trong con người Tào Tháo!
                                                                                                            T.V

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LỮ PHƯƠNG

    Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.

  • MAI ANH TUẤN

    Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU

    14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.

  • TRẦN HOÀI ANH

    1.
    Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.

  • JOSEPH EPSTEIN

    Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
                                    (La Bruyère).

  • LÊ THÀNH NGHỊ

    Văn học nghệ thuật có sứ mệnh phản ảnh sự thật cuộc sống qua đó rút ra bài học ý nghĩa đối với con người. Nguyên lý này không có gì mới mẻ. Lịch sử văn học nghệ thuật cũng chứng minh rằng, gắn bó với hiện thực, phản ảnh chân thực hiện thực là thước đo giá trị của tác phẩm. Điều này cũng không còn xa lạ với mọi người.

  • NGUYỄN THỊ TUYẾT

    A work of art was a form expressive of human feeling,
    Created for our aesthetic perception through sense or imagination.

    - S. Langer(1)
    I paint objects as I think them, not as I see them.
    - Pablo Picasso(2)

  • NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG

    Cách đây một thời gian có hai phóng viên báo Sông Hương đến gặp tôi, đó là hai người Huế. Vì thế tôi có ngay những tình cảm rất đẹp, tình đồng hương. Thứ nữa, tôi thầm nghĩ: Chắc là hai phóng viên này muốn trao đổi với mình về đề tài vô thức đây! Và quả thực như thế.

  • YẾN THANH

    Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo viết ngày 28/8/1945 tại 48 Hàng Ngang và đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một văn bản chính trị quan trọng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại.

  • NGUYỄN THÁI HOÀNG    

    Đi từ triết học đến văn học, quan niệm về hiện tồn phi lí trở thành cảm thức phổ biến của con người hiện đại trước tình thế tồn tại chông chênh, mù mờ bất khả giải.

  • PHẠM PHÚ PHONG   

    Nhìn lại đội ngũ những người viết phê bình văn học trong cả nước ngày càng thưa vắng, thì ở các địa phương miền Trung càng thưa vắng hơn, đến mức có khi không tìm đâu ra chân dung một nhà phê bình thực thụ, đằng sau các bài điểm sách, đọc sách trên các báo.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

    Hiện nay trong giới văn học đang diễn ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi (chỉ được phản ánh phần nào trên báo chí). Những cuộc tranh luận này càng sáp vào việc chuẩn bị cho Đại hội Nhà văn lần thứ 4, càng trở nên gay gắt hơn và người ta càng thấy rõ hơn những gì ẩn đằng sau những ý kiến đối lập.

  • LỮ PHƯƠNG

    Khi theo dõi những cuộc thảo luận về mối tương quan giữa chính trị và văn nghệ trên báo chí nước ta sau thời kỳ "cửa đã mở", tôi gặp một bài đáng chú ý đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 7, 1988 ký tên Lê Xuân Vũ: Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội.

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Tạp chí Cộng sản, số 11-1988 có đăng bài “Quan hệ văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội” của Lê Xuân Vũ.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Trong một dạng thức của lời nói, các đối tượng không có màu sắc.
                                               Wittgenstein[1]

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    1. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, nhà văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái mà tiêu biểu là bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng Kiến và người (KVN), Mối và người (MVN), Nhện và người (NVN).

  • TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG

    Khảo sát không gian Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu đã khảo sát các không gian nhà chứa, tu hành, không gian họ Hoạn danh gia(1)... cũng như các tính chất, đặc điểm của các không gian trong tác phẩm như không gian lưu lạc, không gian giam hãm, không gian tha hương(2)... Điều này có nghĩa là các không gian được khảo sát là các không gian hiện thực, có thể quan sát được bằng giác quan.

  • LÊ QUANG THÁI

    Suy niệm ấy được viết bằng chữ Hán, khắc lên bia đá đầu tiên đề danh tiến sĩ của nước Đại Việt và được dựng lập ở khuôn viên nhà Thái học thuộc di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ năm Giáp Thìn, 1484, niên hiệu Hồng Đức thứ 15. Một sự dụng tâm về mặt lịch học và pháp số lung linh như đã hiển hiện long ẩn có giá trị biểu trưng.