Tiến sĩ Bửu Nam - Ảnh: dhsphue.edu.vn
Vẻ đẹp và sự quyến rũ, mê hoặc của thơ Đường, thơ Haiku (Nhật Bản) một phần lớn là nhờ nó. Nó không chỉ là đề tài, cảm hứng mà còn thể hiện một cách sống, một cách cảm nhận, một cách diễn tả tâm trạng, tình ý, và cao hơn nữa nó phản ánh một triết lý sống và triết lý nghệ thuật của các thi sĩ lớn phương Đông. Đối với các thi sĩ Việt Nam triều Nguyễn như Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh... thiên nhiên có một vị trí và giá trị đặc biệt, và mỗi người có một sắc thái riêng, một cách cảm nhận riêng, một phong cách riêng, phản ánh tâm hồn Việt Nam một cách tinh tế và mang dấu ấn chung của tâm hồn phương Đông. Nhưng chính trong thơ của thi sĩ Vương công triều Nguyễn- Miên Thẩm do cuộc đời, hoàn cảnh và lối sống, do những thăng trầm lịch sử và các biến cố thời đại in dấu trong ngóc ngách tế vi của tâm trạng của ông, và hơn thế nữa vùng đất ông sống là nơi phong cảnh hữu tình, diễm lệ, thiên nhiên chiếm một vị trí hết sức độc đáo và có thể nói nó đã được kết tinh thành tư duy và ý thức nghệ thuật của nhà thơ này. Mặt khác, thành tựu chính của thơ ông Hoàng xứ Huế này là thơ viết bằng chữ Hán. Do việc sử dụng ngôn ngữ viết này vả lại đây là nhà thơ có sở học uyên bác về cổ thi Trung Quốc, nên cấu trúc thơ của thi sĩ này chịu sự chi phối mạnh mẽ của thiết chế cổ thi, cổ phong, thơ Đường, Tổng về thể loại (ngũ ngôn, thất ngôn, hành...) cả về luật Thi, về quan niệm con người vũ trụ và cảm hứng vũ trụ, về từ ngữ, nhịp điệu, hệ thống hình ảnh và ngay cả tứ thơ, thậm chí cả kết cấu, âm hưởng. Nhưng chính trên nền tảng tiếp thu các sở đắc và thành tựu thi pháp của di sản thơ cổ điển Trung Quốc lớn này, ông đã cố sáng tạo ra một sắc thái riêng, một âm hưởng riêng đậm đà tính dân tộc, sắc thái của vùng đất Huế và tâm tình riêng. Chính cái “độ lệch” này trong phong cách thơ của ông, trên cái nền của phong cách cổ thi là điều hết sức quan trọng và đáng lưu tâm. Chính nhờ điều đó, thơ của ông, tạo thành một niềm tự hào cho vương triều Nguyễn và ở một thời điểm nào đó của con người và vùng đất Huế mà trong một câu thơ đã tôn xưng: “Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”.
Trước hết là thiên nhiên - bút họa, vẽ và tả sự nên thơ của phong cảnh quê hương Thừa Thiên Huế và các danh lam thắng cảnh Việt Nam. Loại thiên nhiên này có phong vị của tranh thủy mặc. Tuy nhiên, qua lăng kính chủ quan của từng tâm trạng, cảm xúc và ý đồ riêng của nhà thơ nên mỗi bài dù chừng ấy hình ảnh được sử dụng lại, vẫn mang sắc thái riêng. Ở đây có mối biện chứng giữa cái đẹp của khách thể và tính thẩm mỹ của cảm xúc nhà thơ, nên thiên nhiên được tái tạo mang tính chất nghệ thuật, thiên nhiên dưới mỗi khoảnh khắc, trong một không gian riêng và dưới cái nhìn của tâm hồn thơ. Có thể nói thiên nhiên thứ hai này trong thơ của Miên Thẩm được cách điệu hóa, được chọn lọc và chỉ gợi tả qua một vài nét chấm phá, nhưng nó vẽ nên được vẻ đẹp của thiên nhiên khách thể, và đồng thời là một “thiên nhiên mới” hữu tình hơn. Loại thơ thiên nhiên này cho ta thấy tình yêu xứ Huế và đất nước kết tinh sâu thẳm trong lòng nhà thơ. Tiếp đó, là loại thiên nhiên - ngụ tình, hai nhà thơ xem thiên nhiên như là một phương thế để diễn tả tâm tình, đặc biệt là tình yêu, tình bạn, tình gia đình và cảm xúc trước lịch sử, hoặc mượn thiên nhiên để biểu hiện một ý tưởng, một quan niệm về cuộc đời. Thiên nhiên này có khi được nhân hóa, có khi là một ẩn dụ, hoặc có khi chỉ là một khung cảnh để gợi tình, hoặc đôi lúc chỉ là một tỉ dụ so sánh. Sau hết, thiên nhiên được nâng lên thành một triết lý sống, triết lý nghệ thuật như là một thứ đạo nhàn, biểu hiện khí tiết thanh cao của người quân tử, vừa là lối chiêm nghiệm lẽ đời và thời gian giữa cõi vừa vô thường, mà lại vừa vĩnh hằng trước sự biến động trước lịch sử và sự ô trọc của đời thường. Tâm hồn của nhà thơ như hoà đồng vào vũ trụ để quên đi nỗi sầu thế và như là thái độ ẩn dật trước cuộc đời. Ba loại thiên nhiên này tạo thành một cấu trúc đặc biệt trong toàn bộ thơ của Tùng Thiện, chúng có tác động tương tác lẫn nhau, sắc độ mỗi loại đậm nhạt tùy theo bài mà có những ý nghĩa và chức năng riêng. Thiên nhiên và ý thức nghệ thuật trong thơ Miên Thẩm. Chìa khóa để mở ra quan niệm nghệ thuật về thiên nhiên cả Miên Thẩm, theo thiển ý, có thể tìm thấy trong bốn câu thơ tuyệt bút của thi sĩ Thương Sơn, viết trước khi lâm chung “Bán niên học đạo thái hồ đồ, thoát tỉ như kim nãi thức đồ, tiên sảng đình ba Thiên Mụ nguyệt, thủy hương lâm ảnh hữu nhân vô” (Nửa đời học đạo vẫn phân vân, thoát dép như nay mới thỏa lòng, Thúy Vân, Thiên Mụ trăng và sóng, Bóng rừng hương nước nhớ ta chăng?). Ở đây là sự chiêm ngưỡng cả một đời trước cái chết, trong đó thiên nhiên được đề cao như một giá trị tâm cảm tuyệt đối, một sự luyến nhớ hơn cả người thân. Vả lại, ở thời điểm cái chết sắp đến, đây là lúc đối lập giữa cái hữu thường của con người và sự vĩnh hằng của thiên nhiên, ở đó có tiếng kêu tuyệt vọng gợi hỏi cái vĩnh hằng có nhớ cái hữu hài vô thường này không. Một mặt khác ở đây còn có sự đối lập giữa nhận thức của con người với cái mênh mông khác là “lẽ đạo”, nhưng nếu việc lý hội “đạo” vẫn còn chưa tri nhận được trong một đời người, vẫn còn ở trạng thái phân vân, mông lung, thì trái lại, thiên nhiên xuất hiện như tương cảm sâu xa được nhân hóa như một hữu thể có thể cảm thông với con người. Các môtíp về thắng cảnh thiên nhiên Huế: Thiên Mụ, Thúy Vân, Sông Hương (hương nước) và nới rộng ra các môtíp “núi, chùa, trăng, sóng, sông, nước, rừng” sẽ trở đi trở lại trong thơ của Tùng Thiện với các sắc thái khác nhau mà bài “Lục Thủy” (Nước biếc) gần như biểu hiện đầy đủ: “Lục thủy, thanh sơn thường tại, cô vân, dĩ hạc đồng phi, doãn đình hữu biên khách điếu, tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy” (Nước biếc, non xanh còn mãi, mây trời hạc nội cùng bay, thuyền câu, khách ngồi, bến liễu, cầu nhỏ, sư về, trăng lay). Ở bài thơ này, thiên nhiên, non nước là vĩnh hằng và con người chìm đắm trong đó, như là một nét chấm phá hòa đồng giữa nó, và là một bức họa đẹp được vẽ với bốm gam màu chính: xanh biếc (núi), xanh lục (nước, liễu), vàng (trăng), trắng (mây, hạc) với không gian ba chiều: cao (mây, hạc, trăng), phẳng (cầu, khách, sư, liễu), và sâu (nước), vừa tĩnh (núi, cầu, khách, liễu, trăng, núi), vừa động (hạc, mây, sư). Mặc dầu ở đây người ta có thể thấy sự láy lại một vài hình ảnh của thơ Vương Bột nhưng bài thơ vẫn thể hiện nghệ thuật sáng tạo của nhà thơ về thiên nhiên. Có thể nói tâm hồn nhà thơ đã chộp được cái khoảnh khắc đáng ghi nhớ thần diệu quý báu của cảnh vật. Cảnh vật, thời tiết, hoa trái, cây cỏ, chim muông xứ Thừa Thiên, và Việt Nam in dấu rõ nét trong mảng thơ thiên nhiên của Miên Thẩm. Ở đây, ta có thể thấy hình ảnh trung tâm là sông Hương với hàng chục bài đi thuyền trên sông. Chẳng hạn loạt bài “Chu hành”, “Dạ bạc”, “Chu dạ hữu hoài”, “Hàn thực phiếm châu tức sự”, “Giang đầu tuyệt cú”, “Hương giang tức mục phụng giảng nhất nhị cố nhân”... Một loạt các địa danh các làng và đồi dọc sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế như Kim Long (“Kim Luông dạ bạc”, “Đồng hữu nhân du Kim Long”, “Định Môn (“Định Môn quy châu”), Thuận An (“Thuận An quy châu”), (“Hương Cần”), Đồi Long Thọ (“Long Thọ cương”), Hải Cát (“Hải Cát giang thứ vãn vọng”), Thương Sơn (“Giang thưởng vọng Thương Sơn”) và gần gũi với kinh thành là Gia Hội (“Gia Hội đô”...) Và một loạt các môtíp liên quan đến yếu tố sông nước như khe suối (như bài “Nam Khê”), Cầu Ngói (“Ngõa kiều”...), câu cá (“Dạ điếu”)
Mảng thơ thiên nhiên liên quan gần xa đến môtíp sông nước với các biến thái khác nhau tùy mùa, thời khắc của một ngày (đặc biệt là mùa thu, mùa mưa, chiều tà, và nhất là ban đêm...) chiếm vị trí lớn trong thơ về thiên nhiên của Tùng Thiện và ở đây có thể lọc ra một số bài hay, câu hay. Đối lập mà cùng hài hòa với sông Hương là núi Ngự Bình (“Ngự Bình đăng sơn cao”) và một thắng cảnh khác: núi Thúy Vân (“Đăng Thúy Vân hữu cảm”). Ở không gian cao này, cho phép nhà thơ nhìn xuống bao quát cả vùng đất hoặc dễ liên tưởng tới những sự kiện lịch sử. Mô típ “núi’ còn liên quan đến một số bài khác như “Sơn trung”, “Sơn gia cư tảo khởi”, “Sơn gia cửu nhật”, “Viên lâm tuyệt cú”. Ở đây, nhà thơ nêu cảnh tịch mịch nên thơ với cây cối, gió, tiếng chim, tiếng ca tiều phu, màu mây, sương, trăng... và cũng thể hiện thái độ tiêu dao ẩn dật thanh cao, đối lập cái đua chen ở đô hội và chốn triều đình... Ba cảnh trí đặc sắc của Huế thường lai vãng trong thơ Miên Thẩm và như một dấu ấn trong tâm thức nhà thơ là: vườn (với các bài “Viên cư khẩu hiệu”, “Viên lâm tuyệt cú”, “Viên cư hữu hoài”, “Quá tạ tướng quân lâm viên”). Chùa với tiếng chuông chùa vang vọng trong hàng chục bài, và rải rác hàng chục câu trong các bài khác (“Du Thiên Ấn tự”, “Du Thiên Thọ vãn quy”, “Quá Viên Giác Tự”, “Tây Thiên tự đề bích”, “Sơn trung hiểu bộ quá Tuệ lâm tự”...) Mưa với các bài “Tâm tình”, “Giang thôn nguyệt dạ văn dịch tương vũ nại vũ”... Và đặc biệt mưa Huế trải dài và xuyên suốt qua hàng chục bài thơ (“Không gian tàn vũ chinh yên” Tống khách, “Phố thượng minh mông tỏa yên vũ” Thư nhạn, “Yên vũ phân phi tiếp tố thu” Dạ bạc, “Giang lâu vân hợp, vũ mơ hồ” Giang lâu vũ tọa thị Đặng Phò mã Thiếu Văn, “Vũ thanh xu hát mãnh” Thuật hoài, “Tế vũ lan san”. Hoài Cao Chu Thần)... Mô típ ánh trăng cũng là hiện tượng thường gặp trong một số bài thơ thiên nhiên với các sắc thái khác nhau từ trăng xuống bên cầu (“Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy” Lục thủy) đến trăng đồng hành với sông thuyền(“Giang vĩnh nguyệt đồng hành”, “Thuận An quy châu”), đến trăng núi thơ mộng điểm trang (“Minh nguyệt điền sơn khuyết” Sơn trung, “Vạn tùng phong biếc, thiên sơn nguyệt” Long thọ cương, “Nguyệt lạc sơn thành yên lộ thâm” Ức bùi lục) trăng với cây cối ao thu (“Thu chiếu vô liên toàn thụ nguyệt - Phế viên). Hoặc ánh trăng cứ láy đi láy lại trong bài “Long Thành trúc chi từ”, từ trăng trên trời “Nguyệt minh nhất phiến tự hà niên”, đến trăng rọi khoang thuyền “Đông tân độ nguyệt khẩu minh chu”, trăng sáng trên lầu không “Dạ dạ minh nguyệt không thướng lâu”, trăng với trời nước “Bích không như thủy nguyệt bồi hồi”, đến trăng trên bóng cây già “Cổ mộc hữu chi thê dạ nguyệt”...) Nghiên cứu các môtíp “tiếng chuông chùa”, “mưa”, “trăng”, “sông nước”, “khói”, “thuyền”, “mùa thu”, “núi”... vạch ra ý nghĩa chức năng nghệ thuật của chúng trong cấu trúc mỗi bài thơ, tìm hiểu mối liên hệ của chúng với các cảnh trí thiên nhiên khác và tâm trạng tiềm ẩn của nhà thơ sẽ là điều hữu ích. Sự diễn tiến các mô típ này trong thơ của Miên Thẩm sẽ cho thấy những ám ảnh vô thức của nhà thơ. Nếu so sánh nó với các mô típ cùng loại trong thơ Đường sẽ là một hướng thú vị, bởi từ đó sẽ nhận thức được “độ lệch” trong phong cách nhà thơ Thương Sơn, nhưng đó là điều đi quá xa so với bài phác thảo này. Cây cỏ, hoa, trái, chim chóc được biểu hiện với những chức năng nghệ thuật khác nhau trong tư duy thơ của Miên Thẩm. Từ hoa nở trong vườn nhờ ngọn xuân lại được kết tinh thành một suy gẫm về lẽ biến dịch nở/ tàn, thành/ bại: “Kim nhật tha suy khai, Minh nhật tha suy lạc” (Hôm nay gió giục hoa nở, Ngày mai gió táp hoa rụng) (“Đông viên hoa”) và do đó nêu lên một quan niệm về tình cảm: chớ mừng khi hoa nở (“Mạc hỉ xuân phong tác”) để khỏi sầu não khi hoa tàn. Bài thơ về “cây Chiên đàn” nêu lên một đặc tính cá biệt về mùi hương của cây: ngược gió hương mới nồng “Phần hương quýnh bất quần... chỉ tại nghịch phong văn” (Chiên đàn thụ”. Qua đó, nhà thơ diễn tả một tư tưởng về người tài: sự ngược đời, sự vượt lên hoàn cảnh (hương nhờ gió mới thơm nhưng ở đây thì ngược lại). Bài “Quất chi từ” vừa dùng màu sắc để vẽ lên đặc tính của trái quýt (Ngũ nguyệt thanh thanh, ngũ nguyệt hoàng), vừa diễn tả một ý tưởng sâu sắc về mùi hương của nó, mùi hương chỉ được kết đọng qua sự chịu đựng gió mưa sương giá (Kỷ trùng phong vũ, kỷ trùng sương), và nhờ tay người tình (cam tâm thích tự tình nhân thủ, yêu thức nồng gia triệt cốt hương). Bài thơ như một ẩn dụ, mượn quít để nói người đẹp, người tài. Bài viết về chim nhạn (Thư nhạn) chỉ nói về nhạn trong một câu thứ tư trong tám câu “Ngao ngao nhẫn cơ luyến trù lữ” (Chim nhạn quên đói khát, quẩn theo đàn), với cái cảnh mùa đông buồn bã, lau lách xác xơ, mưa giăng đầu bãi, mà khói mưa mù mịt, trời lạnh, gạo thóc không, để kết đọng lại thành nỗi sầu nhớ tin người đi ở phía Nam tổ quốc (“... bi quyển văn,... Nam trung thiên khách cận như hà, mục đoạn giao thông vô ký nhạn”) Bài “Văn thiền” (Nghe tiếng ve), cái tiếng ve nổi trong gió thu chỉ là điểm xuyết cho một âm thanh buồn cho một hồi tưởng cuộc tiễn đưa năm trước mà nỗi buồn đã làm héo cả liễu “Tống quân tằng thử địa, nhất biệt hốt kinh niên, sầu sái tràng đình liễu, thu phong khởi mộ thiền”. Bài “Hoa đào” (Đào hoa) từ một nét vẽ gợi nên một cảnh thực “Nhất thị hoa khai lộ tình, ca phong tiếu diễm dương thiên” (Sân sau nở một góc hoa, cười diễm lệ giữa trời ngợi gió) để gợi ra triết lý về vẻ đẹp đối với người thoát tục: sư, xử sĩ (lão tăng miết kiến ngộ đạo, xử sĩ dao tầm đắc tiên)... Thiên nhiên còn đóng một chức năng gợi khung cảnh hoặc ước lệ hoặc thực, nhưng mang màu sắc tâm trạng trong các mô típ gặp gỡ, chia tay, tiễn đưa, nhớ bạn... Chẳng hạn bài “Tống biệt”, cảnh khá ước lệ trăng đêm thu rọi sáng núi ải, có rượu tiễn, có chén sầu, nhưng lại mượn cảnh để diễn tả nỗi sầu và niềm nhớ mong giữa hai tâm tình. Bài theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ có chừng ấy hình ảnh và tâm tình nhưng nhờ một kỹ thuật tái cấu trúc hình ảnh và âm điệu nên trở thành một bài hay, nhất là các câu hai (Ảnh nhập ly diên, động khách bi), và câu kết (Bình phân thử địa chiếu tương tư). Đặc biệt cảnh tống biệt của thơ Miên Thẩm xuất phát từ một môi trường lịch sử biến động với bóng ngoại xâm, nên thiên nhiên trong một số bài đượm sắc hùng tráng (“Tòng quân hành”, “Tống Nguyễn mễ tòng quân”...), hoặc bi hùng (“Tống nhân tòng quân”). Thiên nhiên trong các bài nhớ bạn thường được vẽ nên với những nét ảm đạm như bài “Ức Bùi Lục” (Nguyệt lạc sơn thành yên lộ thâm, Ai viên đề đoạn dị triêm khâm) hoặc để nói lên cảnh côi chiếc vì xa bạn như bài “Tặng Cao Chu Thần”, ở đó có cảnh trời đất mù mịt, con người thui thủi một hình một bóng ven trời, vườn cũ tùng cúc hoang vắng (“Cực tích càn khôn nhất giới thân, thiên nhai hình ảnh tự tương thân, cố viên tùng cúc hoang tam kinh, tân dạ phong sương ức nhị nhân...”) Thiên nhiên trong một số bài thơ của Miên Thẩm mất hết cái vẻ thơ mộng để trở thành một nỗi kinh dị với các màu sắc ma quái, hung hiểm liên quan đến đối tượng miêu tả hoặc về chiến tranh như bài “Cổ chiến trường hành”, hoặc cảnh khắc nghiệt của rừng thẳm, suối hoang đối với người đãi vàng như bài “Kim hộ thán”, cảnh người nghèo phải làm kẻ lưu dân như bài “Lưu dân thán”, hoặc cảnh người nghèo cúng con chết trong bài “Mai thử y”. Đặc biệt bài “Quỷ khốc hành”, thiên nhiên trong đó mang màu sắc rùng rợn. Có thể nói thiên nhiên trong thơ Miên Thẩm ở một số bài còn gắn với đặc tính độc đáo trở đi láy đi láy lại trong một loạt bài đó là cảm quan về sự phế hưng, ở đây có lẽ ông đã tiên cảm cho hậu vận của vương triều dòng họ ông chăng? Nhưng bên dưới đó, còn là sự suy ngẫm cho lẽ đời ở trong các cặp đối nghịch: giàu/ sa sút, đông vui/ hoang vắng, tráng lệ/ điêu tàn như các bài “Phế trạch hành”, “Môn hữu xa hành”, “Đăng trấn vũ quán môn lâu”, “Phế viên”... Như đã nói trên, nhiều bài thơ thiên nhiên của Miên Thẩm kết đọng một triết lý về đạo nhàn, triết lý ẩn dật, ca ngợi cảnh thong dong tự tại giữa chốn lều tranh am cỏ, núi xanh, chùa vắng. Về loại thơ thiên nhiên triết lý này, có thể kể đến hàng chục bài. Tóm lại thiên nhiên trong thơ của Miên Thẩm rất đa dạng và có những sắc màu, ý nghĩa, chức năng nghệ thuật khác nhau tùy theo tâm trạng, ý tưởng và mục đích của nhà thơ ở từng bài thơ. Và chính thiên nhiên cũng liên quan đến một tâm trạng chủ yếu của thi sĩ, nỗi cô đơn trước cuộc đời và trước phong ba của lịch sử mà ở đó con người như Vương đã bất lực. Chỉ nhờ có nó mà người thi sĩ quên đi nỗi niềm sầu muộn trong triết lý của cái đẹp và sự thung dung. Dẫu sao, chính nhờ vậy mà thơ của Miên Thẩm có vẻ quyến rũ riêng... Lập đông- Kỷ Mão B.N (137-07-00) ------------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ưng Trình và Bửu Dưỡng: Tùng Thiện Vương, Huế- Sài Gòn, Nhà in Sao Mai, Thủ Đức, 1970. 2. Ngô Văn Chương, “Phân tích những khuynh hướng tình cảm, đạo lý, xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vương", Tủ sách văn học, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, SG, 1970. 3. Thơ Tùng Thiện Vương, Ngô Linh Ngọc- Ngô Văn Phú dịch, Mai Ưng đề tự, Văn học, Hà Nội, 1991. 4. Trần Thanh Mai, Tuy Lý Vương, Huế, Ưng Linh xuất bản, 1938. 5. Trần Như Uyên. Những khuynh hướng chủ yếu trong thơ Tuy Lý Vương, Tiểu luận cao học, SG, 1967. 6. Thơ Tuy Lý Vương Miên Trinh, Trần Như Uyên dịch và giới thiệu, Bửu Cầm hiệu đính và đề tựa, Nxb Văn học và Sở VHTT Huế, 1992. |
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".