Thi nhân với việc chống tham nhũng

14:19 18/11/2008
THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

Nhân ngày xuân xin cùng bạn điểm qua một số bài thơ về đề tài đó của nước danh nhân đất nước.
Nhà thơ họ Cao:
Phú Thị là một làng thuộc Bắc Ninh xưa (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội) có một ngôi đình lớn mang tên làng - còn có tên là đình Sủi. Trên cho phép đắp một đôi voi phục trước cổng đình, bọn hương lý địa phương cơ hội này bớt xén kinh phí để bỏ túi khiến công trình không đạt chất lượng và thẩm mỹ. Dân làng ca thán nhiều tới tai Cao Bá Quát. Nhà thơ đã trực tiếp thị sát công việc xem kỹ đôi voi - quả lời ca thán của chúng dân là chính xác. Ông liền viết một bài thơ đề ngay trên mình voi, rằng:
“Khen ai kheo khéo đắp đôi voi
Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi
Chỉ có cái kia sao không đắp
Hay là hương lý bớt đi rồi?”
Bài thơ khiến dân chúng sung sướng hả dạ rồi thi nhau đọc đến thuộc lòng còn bọn hương lý vừa tức giận vừa e sợ và kính nể.
Tam nguyên Yên Đổ:
Sau khi rạng danh, Nguyễn Khuyến từng quan tâm đến việc phê phán những việc làm bất nghĩa, vô đạo đức của bọn quan lại. Ngày ấy viên quan đốc học tỉnh Hà Nam hay ăn tiền của học sinh trong các kỳ thi cử.Nhà thơ đã viết bài thơ tặng tên quan tham này như sau:
"Ai rằng ông dại với ông điên
Ông dại sao ông biết lấy tiền
Cây các bảng vàng treo Nhị giáp
Khoét thần mặt trắng lấy Tam nguyên
Dẫu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ
Phép nước xin chừa móng lợn đen
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen"
Bài thơ khiến quan đốc học vô cùng hổ thẹn, bẽ bàng.
Thi sĩ Tản Đà:
Quan tri phủ huyện Anh Sơn (Nghệ An) Phan Tứ là kẻ tham nhũng có hạn. Chỉ mấy tháng làm “quan phụ mẫu” mà y đã chiếm được tới ba ngàn đồng - số tiền này lúc đó là rất lớn. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có bài thơ chỉ tận tay, day tận trán như sau:
"Thái Bình chưa dứt tiếng kêu than
Lại tiếng kêu trời ở Nghệ An
Một phủ Anh Sơn vừa mấy tháng

Mà tay Phan Tứ lấy ba ngàn
Cũng phường dối nước, quân ăn cắp
Cũng lũ tàn dân, giống hại đàn..."
Tuần phủ Vĩnh Yên là Đào Trọng Vận trong một vụ xử kiện đã ăn đút lót tới hai ngàn rưỡi đồng bạc để xử sai lệch hại dân lành. Khi đó Tản Đà đang là chủ bút "An Nam tạp chí" liền gợi ý cho một nhà văn trong tòa soạn là Ngô Quý Tiếp dựa vào câu chuyện đó để viết một truyện ngắn nhan đề “Tờ di chúc” rồi thi sĩ làm bài thơ “Xem tiểu thuyết tờ chúc thư cảm đề” để vạch mặt tên quan này trước công luận. Bài thơ viết rằng:
“Thật có hay là mắc tiếng oan
Kém năm trăm nữa đủ ba ngàn
Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn
Mặt sắt còn bia miệng thế gian
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan
Đào mà đào được nên đào mãi
Mềm cứng bây giờ đất Vĩnh An”
Bài thơ này được tác giả cho in trên An tạp chí số 8 -1927 khiến tên tuần phủ tím mặt.

Tuần phủ Ninh Bình là Từ Đạm - một tên quan tham nhũng, lại kiêu kỳ háo  danh một cách kệch cỡm. Một lần về thăm thắng cảnh Non Nước tại thị xã Ninh Bình là Từ Đạm cho người đục vào đá một bài thơ kiểu “con cóc” của hắn trên đỉnh Dục Thúy rằng:
“Trăng gió vui cùng hắn
Lầm than bận kệ ai
Ham chơi non với nước
Có phúc được ngồi dai”
Không những thế, năm sau hắn còn trơ trẽn cho đục cả một bàn cờ và hai lốt chân của mình trên đá. Thi sĩ thấy nực cười bèn dạy cho hắn một bài học bằng cách thuê người đục một bài thơ cạnh bài thơ của Từ Đạm:

“Năm ngoái năm xưa đục mấy vần
Năm nay quan lại đục hai chân
Khen thay đá cũng bền gan nhỉ
Chịu mãi cho quan đục mấy lần”
Chữ đục được nhắc lại đến ba lần thành điệp ngữ để vạch mặt thói đục khoét của y.
Sau đó, có lần Từ Đạm đi chơi Non Nước, đọc bài thơ của Tản Đà mặt hắn trắng bệch, mồm há hốc...
   T.T

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.