Nhìn lại gần 100 năm qua, kể từ khi Thơ mới có những manh nha trên báo chí đến thời điểm hiện tại, có thể liệt hàng nghìn bài viết, công trình tập trung vào mọi khía cạnh của Thơ mới.
Tuy nhiên, một sự hình dung có tính hệ thống nhất từ khía cạnh biên niên lại dường như chưa có. Chính vì thế, sự ra đời của công trình “Biên niên sử Thơ mới Hà Nội 1932 - 1945” do PGS, TS Nguyễn Hữu Sơn và các cộng sự biên soạn, là một cuộc kiểm kê cần thiết, hữu ích đối với những ai quan tâm đến thời đại thơ ca vàng son này. Bộ sách gồm hai tập, dày 1.600 trang, do nhà xuất bản Hà Nội ấn hành (2019), nằm trong Tủ sách Thăng Long 1.000 năm.
Tuân thủ thể thức biên niên, bộ sách tập hợp một cách đầy đủ nhất (có thể) mọi diễn biến, sinh hoạt thơ ca ở đô thành Hà Nội thời kỳ 1932 - 1945. Theo đó, sự ra đời của phong trào Thơ mới được chính thức xác lập với bài thơ “Tình già” của Phan Khôi đăng trên “Tập văn Mùa xuân” của báo Đông Tây ở Hà Nội tháng 2-1932. Phan Khôi gọi đó là “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”. Cũng từ thời điểm đó, cuộc biến thiên trọng đại của thơ ca Việt Nam, trên tinh thần tích hợp, tiếp biến với văn hóa phương Tây đã diễn ra. Những tên tuổi như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Nhược Pháp, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Quách Tấn,… lần lượt xuất hiện. Những tờ báo văn chương như Phụ nữ tân văn, Phong hóa, Ngày nay, Đông Tây, Bắc Hà, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, Tri tân, Thanh Nghị… lần lượt đăng tải các tác phẩm, tác giả, các bài bình luận, điểm sách, giới thiệu, phê bình Thơ mới. Không khí thơ ca sôi nổi, trở thành một tiêu điểm trên mọi mặt báo, đến mức người ta cho rằng, nếu không đăng Thơ mới thì chả ai đọc báo nữa.
Lần lại dấu xưa, “Biên niên sử Thơ mới Hà Nội 1932 - 1945” tập hợp theo tiến trình lịch sử sự xuất hiện của tác giả, tác phẩm, trào lưu, trường phái, các bài điểm sách, phê bình, khảo cứu, tranh luận, xuất bản, quảng cáo liên quan đến Thơ mới. Mọi tư liệu trong bộ sách được chú thích rõ ràng, kỹ lưỡng về thông tin tra cứu, cho thấy công phu và sự nghiêm cẩn của nhóm biên soạn.
Diễn tiến của lịch sử Thơ mới Hà Nội dừng lại ở thời điểm tháng 6-1945 với tập “Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu. Trải qua 14 năm, Thơ mới Hà Nội nói riêng và Thơ mới Việt Nam nói chung, đã từng bước từ phôi thai, khai sinh đến trưởng thành và định hình một cách sáng chói. “Biên niên sử Thơ mới Hà Nội 1932 - 1945” đã lần theo từng bước đi ấy để đánh dấu những chặng đường, những vết son, những sự kiện, nhằm đem đến hình dung trọn vẹn nhất (có thể) về một tượng đài của thơ trữ tình Việt Nam. Sẽ còn nhiều việc phải làm về bộ sách này khi các nguồn tư liệu mới tiếp tục được bổ khuyết. Và, cũng sẽ có nhiều việc cần phải làm từ bộ sách hữu ích này, như một công cụ, cho những người yêu thích Thơ mới.
Theo Lê Phong - Thời Nay/ND
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.