NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)
Sau mấy tập thơ chủ yếu có tính “thù tạc” bày tỏ ơn nghĩa với quê hương và người thân, tập truyện “Kiếp Ba Khía” (Nxb. Văn hóa - văn nghệ, 2014), có thể xem là “trận đánh” thử nghiệm đầu tiên của Trần Bảo Định trong “trường văn trận bút” khi vừa lên tuổi 70!
Có thể, như tên một tập truyện anh vừa xuất bản đầu năm 2019, Trần Bảo Định viết những truyện đầu tiên chỉ là một cách “Chơi thôi mà!”, để có thêm nghị lực và niềm vui vượt qua bạo bệnh. Nhưng “Kiếp Ba Khía” được bà con “đồng hương” đón đọc thích thú, rồi bạn hữu khuyến khích, hai “nguyên tố” quý trong cái “mỏ” giàu trữ lượng của anh là vốn sống và vốn văn hóa đồng thời được “kích hoạt”; từ đó, hơn chục tập truyện và ký của Trần Bảo Định liên tiếp được các nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Văn hóa - Văn nghệ, Hội Nhà văn, Đà Nẵng ấn hành: Đời bọ hung (2015), Phận lìm kìm (2016), Chim phương Nam (2017), Đất phương Nam ngày cũ (2017), Ông già Nam Bộ nhiều chuyện - Dấu chưn lưu dân (2017), Ông già Nam Bộ nhiều chuyện - Góc khuất dưới chưn đèn (2017), Khói un chiều (2018), Bóng chiều quê (2018), Bông trái quê nhà (2018) và năm 2019 với hai tập Chơi thôi mà, Mưa bình nguyên và tập Thương những ngày… sắp in.
Mặc dù chỉ là một cựu chiến binh, một nhà văn-không thẻ, trong 5 năm qua, có thể nói Trần Bảo Định đã lập “kỷ lục” về viết và xuất bản sách. Có lẽ cũng nên nói thêm: trong khi không ít nhà văn in sách chủ yếu để biếu, tặng hoặc “phát hành” theo các “kênh” thân hữu, thì toàn bộ sách Trần Bảo Định được đưa ra thị trường, mỗi cuốn đều in từ 1.500 đến 2.000 bản, mà hầu như không hề có chiêu trò PR nào và truyện của anh cũng chẳng hề chiều nịnh thị hiếu tầm thường (như giết-hiếp hay sex…). Chỉ riêng điều này đã chứng tỏ tác phẩm của Trần Bảo Định đã đạt đến những giá trị nghệ thuật và nhân văn có sức cuốn hút độc giả.
Trong các bài viết đăng trên báo “Văn nghệ” (Hội Nhà văn Việt Nam”) và “Kiến thức ngày nay” bình luận về một số tập truyện của Trần Bảo Định mấy năm trước, tôi có nêu nhận xét: “Có thể nói, Trần Bảo Định là một cây bút có đóng góp rất đặc sắc trong dòng “văn học sinh thái” đang ngày càng được chú ý…”. Mới đây, giữa năm 2019, tôi được tin cô giáo Phạm Thị Thanh Thủy, vừa bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ “Văn xuôi Trần Bảo Định dưới góc nhìn sinh thái” tại trường Đại học Khoa học Xã hội - Nhân văn, TP.HCM và đạt 9 điểm. Đây quả là một chủ đề khá bật nổi trong các tác phẩm của Trần Bảo Định, nhưng đến nay qua hơn chục tác phẩm - nhất là với 2 tập truyện in năm 2019 (trong đó, có nhiều truyện được giới thiệu trước tiên trên Tạp chí Sông Hương) chúng ta có thể thấy rõ những đóng góp khác của anh đối với văn học cả nước cũng rất đáng kể.
Theo tôi, không có chi ngần ngại khi ghi tên Trần Bảo Định tiếp sau Đoàn Giỏi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy, Nguyễn Ngọc Tư… - những nhà văn Nam Bộ tên tuổi, bằng các tác phẩm xuất sắc của mình, đã miêu tả con người và vùng đất mở phía Nam Tổ quốc thật sống động, được nhiều thế hệ bạn đọc truyền tụng. Chưa bàn đến nghệ thuật, chỉ riêng về “đề tài” (thuật ngữ bao gồm tư liệu, sự kiện, bối cảnh câu chuyện, không-thời gian miêu tả…) tác phẩm của Trần Bảo Định cung cấp cho bạn đọc một khối lượng kiến thức có thể gọi là “khổng lồ” về vùng đất phía Nam. Chúng ta được thấy hầu như toàn bộ lịch sử và đời sống ở đây, từ thời “mở đất” đến những cuộc chiến đấu anh hùng chống ngoại xâm, từ tên các sông rạch đến quá trình hình thành những đền miếu trên mọi vùng quê, từ các món ăn dân giã đến những câu ca dao và giai thoại, từ rừng đước giữ đất cùng nhiều loại cây cỏ đến nhiều loại chim cò, cua cá… Vào lúc “văn học tư liệu” đang được độc giả quan tâm, đây cũng là một giá trị đáng kể khi bàn đến tác phẩm của Trần Bảo Định.
Tất nhiên, nếu chỉ có tư liệu thì Trần Bảo Định không thể lôi cuốn được độc giả liên tục với hơn chục cuốn sách. Nói theo chữ của nhà nghiên cứu- dịch giả Phan Ngọc là Trần Bảo Định có “mẹo” kể chuyện. Việc nghiên cứu phân tích các thủ pháp, phong cách nghệ thuật (tức là “mẹo”) của Trần Bảo Định một cách kỹ lưỡng xin dành cho các sinh viên cao học làm luận văn tiến sĩ. Ở đây, tôi chỉ xin nêu một vấn đề thuộc quan niệm đánh giá tác phẩm hầu như chỉ nhằm vào cái gọi là “trường phái” (hay “chủ nghĩa”) mà nhà văn thực hiện. Nếu như tôi không nhầm thì không ít người cho rằng bây giờ chỉ đáng xem những tác phẩm viết theo “hậu hiện đại” hay “siêu thực” với các thủ pháp “phóng đại” và “giễu nhại”, “huyền ảo”; còn viết theo bút pháp hiện thực “truyền thống”, “cổ điển” đã hết thời rồi, “xưa” rồi! Theo tôi, đây là một cách nghĩ thiên lệch - nếu không muốn nói là sai lạc. Chúng ta đều biết, trong văn học nghệ thuật, sáng tạo, đổi mới là yếu tố “sống còn”, nhưng khác với đồ vật - như mua được chiếc mũ mới, ta có thể bỏ cái mũ cũ đã rách vào thùng rác; còn một bài ca dao hay Truyện Kiều, dù “cũ” vẫn song hành với những tác phẩm sáng tạo mới mẻ của thế kỷ 21! Nói như vậy là tôi vẫn tôn trọng những nhà “cách tân”, nhưng không nghĩ đó là phương pháp độc nhất để tạo ra giá trị. Cũng có thể hình dung, văn học nghệ thuật như một vườn hoa, bạn có thể “sáng tạo” (như lai ghép) ra loại hoa mới, nhưng không vì thế mà vứt bỏ (hay xem thường) hoa hồng hay hoa mai. Hơn nữa, trong văn học, bút pháp hiện thực cũng luôn đổi mới, tùy khả năng và “tạng” của nhà văn.
Những giải Nobel tặng cho các tác giả viết theo bút pháp hiện thực (như nữ văn sĩ Belarus Svetlana Alexxievich với hai cuốn sách “Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ” và “Tiếng vọng từ Chernoby”) là một bằng chứng rõ rệt rằng bút pháp mà các nhà “cách tân” cho là lỗi thời vẫn tạo nên tác phẩm có giá trị. Những tác phẩm của Trần Bảo Định, dù không sáng tác theo các trường phái - chủ nghĩa thời thượng, vẫn được bạn đọc đón nhận là bằng chứng bổ sung gần gũi với chúng ta. Với hai cuốn sách vừa xuất bản năm 2019, Trần Bảo Định thực sự đã khẳng định được một phong cách, tạo được dấu ấn rõ nét trên văn đàn.
Điều có lẽ được nhiều người công nhận là Trần Bảo Định xứng đáng với danh hiệu “Người kể chuyện dân gian hiện đại”. Chỉ cần dùng thao tác “thống kê” mà các nhà nghiên cứu thường sử dụng khảo sát một thủ pháp của Trần Bảo Định, như tác giả hay trích dẫn ca dao, là đủ thấy; như trong truyện “Lão Năm Cối Đá” mở đầu tập “Mưa bình nguyên”, Trần Bảo Định đã trích dẫn ca dao đến 6 lần!
Chất “dân gian” của Trần Bảo Định còn thể hiện ở cách dựng truyện, thường là bắt đầu nêu tên một địa danh, một nhân vật ngộ nghĩnh hoặc kỳ quặc gợi trí tò mò của độc giả (như “Năm Cối Đá”, “Hai Siêu Đất”, “Ông Tư giải quyết”…), rồi dần mở bức màn bí mật như bà dẫn cháu vào xem kho báu ở lâu đài công chúa trong truyện cổ tích. Nhiều truyện của Trần Bảo Định còn vâ#n dụng lối nói hài hước, đố tục giảng thanh, tiếu lâm và cả chuyện “sex”, tất nhiên được miêu tả một cách “dân dã”. Ngay từ cuốn truyện đầu tay “Kiếp Ba Khía”, nhà văn Bích Ngân cũng đã nhận xét: “Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ một cách dân giã, hài hước… giọng văn hóm hỉnh nhưng có chiều sâu triết lý…”.
Miêu tả cảnh chị Hai cứu chú Sáu sau khi bị sét đánh bằng cách chuyền “hơi ấm âm dương từ cơ thể đàn bà”, TBĐ viết: “… Cuống quýt, chị sợ Sáu bị “nhập thổ”… Sáu lạnh co quắp, mặc cái áo sờn vai, rách lưng… Cởi và đổi áo, chị mơ hồ bơi bồng bềnh trong cảm thức giữa tình thương của người chị với em, của người vợ với chồng. Bằng ảo giác, chị lờ mờ ranh giới thực và mộng… Và bất ngờ, chị thèm được quyền làm mẹ…” (Truyện “Hai Siêu Đất”).
Truyện “Ông Tư giải quyết” - cái tên rất không… văn chương, vậy mà tác giả dựng lên được một nhân vật độc đáo và cuộc sống cả một làng quê Bình Lập (Tân An) suốt trong hai cuộc kháng chiến rất sinh động. Khi tên Bảy Chôm dắt lính truy tìm Việt Minh là chồng con Út mà nó nghi ông Tư “giải quyết” giúp trốn thoát, ông Tư tủm tỉm cười: “Nếu giải quyết thì qua “giải quyết” con Út, mắc mớ chi giải quyết thằng chồng con Út!” Tôi tin là bạn đọc cũng sẽ tủm tỉm cười với cái hóm hỉnh dân dã của Trần Bảo Định.
Trần Bảo Định còn khe#o dồn nén sự kiện, tổ chức không-thời gian nhiều tầng lớp đan xen, nên không ít truyện của ông - mặc dù dung lượng chỉ là một truyện ngắn, nhưng có sức hàm chứa như một tiểu thuyết sử thi. Đọc các truyện “Thầy Tư Lữ - Huyền sử đất phương Nam”, “Đêm quê nhà - Đàm mộng Tố Như” (trong tập “Mưa bình nguyên”) “Chơi thôi mà” (tập truyện cùng tên)… độc giả như được nếm trải, chứng nghiệm cả những thiên lịch sử đầy giông bão, thăng trầm của đất nước với mọi nỗi buồn vui, thao thức khôn nguôi. Làm sao có thể không trăn trở suy ngẫm trước cuộc đời của một nhân tài như Nguyễn Du đã phải “mười năm phong trần nếm trải đói nghèo và cay đắng” vật vã tìm chỗ đứng giữa xu hướng “phò Lê”-Nguyễn Huệ - Gia Long cũng như số phận bà má có con ở hai bên chiến tuyến, ngày đất nước hòa bình thì “anh Hai chẳng biết đã chết trong đám loạn quân hay di tản?... (Truyện “Đêm quê nhà - Đàm mộng Tố Như”).
Không biết là chủ đích của tác giả hay là sự tình cờ thú vị, khi Trần Bảo Định đặt truyện “Thương những ngày…” ở cuối tập sách cùng tên sắp xuất bản (có thể xem đây là truyện cuối của bộ truyện 13 cuốn của Trần Bảo Định cho đến nay) - một truyện ngắn chứa đựng cả 3 nét đặc sắc của Trần Bảo Định: vừa như một nhà “sinh thái học”, vừa là người kể chuyện dân gian hiện đại và khéo chuyển tải một nội dung “sử thi” trong chục trang giấy. Chỉ với hai nhân vật “bé mọn” ở làng quê có con sông Bảo Định - chứ không phải là tướng tá, chính khách hay đại phu nhân - mà tác giả đã dựng nên một thiên tình sử đậm chất nhân văn, dân dã mà cao thượng. Có cảnh thơ mộng giữa một vùng sông nước “níu sương là đà khói sóng…, ếch nhái đua nhau kêu dậy đất gọi bạn tình”, đêm về khuya vọng tiếng hò tha thiết “Thò tay anh bứt cọng ngò/ Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ”, đôi bạn Sáu Tý và Hai Lan đi bắt ếch, bắt gặp cặp “ếch đực nằm dính khắng trên lưng ếch cái và khi gặp ánh đèn, ếch đực có thể buông bạn tình thoát thân; song nó không làm vậy, thà cùng bị chụp chung số phận với bạn tình, hơn là buông nhau, nhảy trốn! Chạnh lòng, Hai Lan cảm kích! “- Thôi, về anh Sáu!”… Chụp bắt ham, Sáu Tý không thể dừng tay…. “- Bộ anh Sáu không thấy xót thương khi chụp ếch bắt cặp?” Tả cảnh tình tứ loài vật và thiên nhiên là khúc nhạc dạo cho vở bi kịch về con người; trước ngày Hai Lan bị ép gả cho Tư Cò, con trai một Cả Dẫn và lại là lính Dân vệ đồn Cây Bần, cô quyết định hiến thân cho người yêu trên chòi vịt, cảnh “sex” khá mùi mẫn, nhưng chuyện đáng phải xảy ra đã không xảy ra vì Sáu Tý nói: “- Anh không thể lấy cái không thuộc về anh!” Sáu Tý hôn Hai Lan, nụ hôn vĩnh viễn không là của nhau.” Rồi chiến tranh, Sáu Tý thành quân giải phóng, 10 năm sau trở về chốn xưa thì mới hay Hai Lan thành phu nhân đồn trưởng Tư Cò, nhưng Tư Cò bị giết, lại bị vu loạn luân với bố chồng là Cả Dẫn, cô tự tử, lấy cái chết để tỏ mình trong sạch… Chuyện tương tự như vậy cũng đã có sách viết, nhưng Trần Bảo Định “cao tay” hơn, khi để Sáu Tý gặp bé Chuột, đứa con gái mồ côi của Hai Lan sống cô đơn vì “kẹt giữa hai làn đạn”, ông đã nhận Chuột làm con, mặc dù thủ trưởng can ngăn: “- Đồng chí có biết làm vậy là mất lập trường và đã mất lập trường, thì không thể...”.
Hai tháng sau, Sáu Tý ra quân!
Chẳng đắn đo, Sáu Tý điềm nhiên làm thủ tục nhận bé Chuột là con gái của anh cho dù, đó là con gái của đối phương - viên đồn trưởng - Với anh, trẻ thơ vô tội và lại càng không nên để chúng dính dáng gì tới máu xương của cuộc chiến! Người lớn vẽ bùa, sao lại bắt tụi nhỏ phải đeo?...”
Chưa có bài phê bình tác giả nào mà tôi trích nguyên bản dài như thế! Thế mới gọi là dạng “sử thi cô đúc”… Chỉ 7 từ trong câu “Hai tháng sau, Sáu Tý ra quân” có thể viết hàng chục trang vẫn không nhạt. Bao nhiêu là từng trải và trăn trở, đấu tranh với những “quan điểm”, nếp nghĩ quen thuộc mới đi tới quyết định hệ trọng đó. Mặt khác, thái độ sống quyết liệt và phóng khoáng ấy đã thể hiện một tính cách tiêu biểu của người dân Nam Bộ. Ở thời buổi bạn đọc ngại “ôm” những cuốn tiểu thuyết sử thi dày cộp, cách viết cô đúc, nén chặt cả sự kiện và không-thời gian của Trần Bảo Định cũng là một đóng góp đáng kể…
Tôi hy vọng sẽ có một luận văn tiến sĩ về bộ truyện của Trần Bảo Định, để có thể nghiên cứu sâu hơn những tác phẩm của ông và như thế, một lần nữa, vẻ đẹp, sự phong phú của con người và vùng đất Nam Bộ càng được nhiều người biết đến…
N.K.P
(TCSH370/12-2019)
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.