HÀ VĂN LƯỠNG
Haruki Murakami sinh ra ở Nhật Bản, nhưng lại sống nhiều năm ở nước ngoài, chịu ảnh hưởng khá đậm nét văn hóa phương Tây, trong sáng tác của ông, cùng với những biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa hậu hiện đại, những yếu tố vô thức, tâm linh cũng được nhà văn thể hiện trên các bình diện khác nhau.
Ảnh: internet
Nếu ở thể loại truyện ngắn, nhà văn ít vận dụng vô thức vào việc khai thác tâm lý nhân vật, thì trong những tiểu thuyết như Kafka bên bờ biển, Biên niên ký chim vặn dây cót, Rừng Nauy, Người tình Sputnhik, Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời... vấn đề vô thức, giấc mơ và bản ngã nhân vật được nhà văn phản ánh rất sâu sắc.
1. Vô thức với khả năng tiên tri linh diệu
Trước S.Freud, khi nghiên cứu thế giới tâm linh con người, những người như Descarter, Kant, Nietzshe, P.Janet..., đồng nhất tâm linh với ý thức hoặc thấy được tầng sâu của ý thức là cái gì đó không giải thích được, mà chưa phát hiện ra thế giới vô thức của con người. Đến thế kỷ XX, mở đầu là S.Freud và tiếp theo là C.G.Jung, J.Lacan..., vô thức đã được nhận diện và có vai trò quan trọng trong tâm lý con người và sáng tạo nghệ thuật. Không những phát hiện ra sự hiện hữu của tâm linh vô thức, S.Freud còn chỉ ra sự can thiệp của vô thức vào đời sống ý thức con người. Vô thức không hề thụ động, nó có tác động mạnh mẽ đến tư duy, tình cảm con người và biểu hiện rất năng động gắn với những khả năng tiên tri kỳ diệu của con người.
Biết trước được những việc sẽ xảy ra là một khả năng tiên tri tuyệt vời của một số người. Những người đó có tài tiên đoán phi thường không chỉ về số phận của mình và của người khác, mà còn cả vận mệnh dân tộc, đất nước. Cái làm nên khả năng thần bí, kỳ diệu đó là bí mật của cõi vô thức trong con người. Trong thế giới vô thức của “tâm linh”, “mặc khải”, những người có năng lực thần kỳ dường như được “thiên phú” đã có những tiên đoán cực kỳ chính xác về những điều sắp xảy ra. Trong tiểu thuyết Kafka bên bờ biển, Biên niên ký chim vặn dây cót xuất hiện những người có khả năng tiên đoán tài tình như thế. Các nhân vật như Honda, Kano Crera, Kano Malta (Biên niên ký chim vặn dây cót), Nakata, Koichi Tamura (Kafka bên bờ biển) có những khả năng phi thường, tiên đoán và linh nghiệm những điều sẽ diễn ra trong tương lai.
Ở Biên niên ký chim vặn dây cót, những người có năng lực tiên tri, ngoại cảm, về ngoại hình và tính cách không khác những người bình thường khác, nhưng ở họ khả năng kỳ diệu đó bắt nguồn từ trong sâu thẳm của thế giới vô thức. Là người bị mất thính giác từ hồi chiến tranh tại biên giới Ngoại Mông và Mãn Châu, Honda “là người chuyên lên đồng, một trong những kiểu nhà ngoại cảm mà dòng họ Wataya coi là của quý..., có khả năng nghe thấy lời của các linh hồn” [1, tr.60]. Tác giả đã để cho Honda tiên đoán về số phận thăng trầm và cái chết vì nước của Okada và trung úy Mamiya. Ngay từ lần gặp đầu tiên, Honda đã nói với Okada: “Hễ đi lên thì phải chọn ngọn tháp cao nhất mà trèo lên đỉnh. Hễ đã đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy... Biết đâu trong tương lai anh bạn trẻ này rồi sẽ nếm mùi thống khổ mà chuyện đó có liên quan đến nước” [1, tr.64]. Lời tiên đoán này đã đúng, khi trong suốt cuộc hành trình của mình, cuối cùng Okada đã tìm ra cái giếng cạn trong cái nhà hoang giữa vùng Nội Mông và quyết định xuống đó. Nếu không có sự cứu giúp của Quế kịp thời thì Okada sẽ chết vì nước ở dưới giếng: “Nước đang chảy từ một khe hở nào đó, mà hình như càng lúc càng nhanh... tuôn chảy xối xả... Nước đang dâng lên và tôi đang gặp khốn” [1, tr.686]. Chính Honda cũng biết được số phận của trung úy Mamiya khi hai người cùng tham gia chiến tranh: “Trong bốn chúng ta (Mamiya, Honda, Yamamoto và Hamano), trung úy sẽ là người sống lâu nhất, lâu hơn trung úy tưởng nhiều. Trung úy sẽ chết ở Nhật” [1, tr.177]. Kết cục, người ta đã tìm được xác trung úy Mamiya dưới một giếng cạn giữa sa mạc Nội Mông nhờ lời tiên tri ứng nghiệm của Honda. Nhân vật Kano Malta “có khả năng tiên đoán nhiều chuyện. Chị biết ở phòng bao nhiêu có bệnh nhân vừa chết, hoặc nếu ai đó đánh rơi ví thì chị biết chính xác tìm ở đâu sẽ thấy” [1, tr.105]. Kano Malta cũng tiên đoán và biết chắc chắn những điều xảy ra với Okada. Khả năng này của nhân vật được tác giả nói đến nhiều lần. Nói về con mèo bị mất, Kano Malta nhận định chính xác rằng: “Có một điều chắc chắn: nó không quanh quẩn ở nhà ông bà nữa. Ông bà sẽ không bao giờ tìm thấy nó trong khu hàng xóm kia đâu” [1, tr.55]. Và cả việc mất chiếc cà vạt cùng những vết tím bầm trên má Okada cũng được Kano Malta tiên đoán một cách chính xác rằng sẽ tìm thấy ở tiệm giặt đồ.
Những “linh giác” của Honda và Kano Malta là những “mặc khải” không được tin ngay mà phải qua sự trải nghiệm mới biết đó là sự thật. Đây là điều thú vị của thế giới vô thức tiềm ẩn trong con người mà thế giới của ý thức không thể lọt vào được. Nhà văn đã mượn những yếu tố “ngoại cảm” như một sự giải đáp về thế giới vô thức - những mong manh trong thế giới hữu thức - góp phần làm cho tác phẩm trở nên bí ẩn và hấp dẫn người đọc.
Trong Kafka bên bờ biển, nhân vật Nakata và Koichi Tamura cũng có những khả năng tiên đoán kỳ diệu nhờ vào một lực lượng siêu nhiên vô hình đưa ra lời “mặc khải” để chỉ dẫn họ thực hiện. Suốt cuộc hành trình đi tìm hòn đá thiêng, nhờ những cơn ngủ ly bì và những giấc mơ của vô thức mà cuối cùng Nakata đã có những quyết định sáng suốt cho hành động của mình. Nếu những tiên đoán của Honda và Malta (Biên niên ký chim vặn dây cót) liên quan đến số phận và tương lai con người thì những tiên tri của Nakata lại gắn liền nhiều hơn với các hiện tượng kỳ lạ sẽ xuất hiện. Nakata có thể nói chuyện được với mèo, có thể tiên đoán được những hiện tượng kỳ lạ trong thiên nhiên. Bằng chứng là nhân vật này đã có dự báo với một viên cảnh sát: “Sẽ có cá từ trên trời rơi xuống như mưa. Vô số cá. Lão nghĩ đa phần là cá mòi. Xen lẫn vài con cá thu...” [1, tr.191]. Và điều tiên đoán đó đã thành sự thật: “Ngày hôm sau, khi một cơn mưa cá mòi và cá thu thật sự trút xuống một khu của Quận Nakano... Khoảng hai nghìn con cá mòi và cá thu” [1, tr.191,192]. Chính trận mưa cá thực sự này đã làm cho viên cảnh sát trẻ kinh ngạc và hoang mang về “cái lão già lẩm cẩm kỳ quái ấy”. Cuối cùng viên cảnh sát cũng phải huy động xe chở rác để thu gom xác cá làm sạch đường phố. Có lần đang trên đường đi “Nakata nhìn lên trời rồi chậm rãi mở ô, giương lên che đầu. Rất thận trọng, lão lùi lại mấy bước” và “bất thình lình, những vật lầy nhầy từ trên trời rơi xuống đất bồm bộp... cơn mưa đỉa ập xuống ào ào một lúc... Một đống đỉa nhung nhúc...” [1, tr.220,221]. Lời “sấm truyền” của người cha Koichi Tamura cho con trai (Kafka) rằng, sẽ “Giết cha, ngủ với mẹ và chị gái” về sau đã linh nghiệm cũng xuất phát từ cõi vô thức do bị dồn nén của bản năng. Phải chăng, trong thực tế bản thân Koichi Tamura không thỏa mãn các ham muốn, khoái cảm mang tính bản năng, bị ức chế nên mong muốn được giải tỏa thông qua người con trai Kafka. Và hành động của Kafka cũng do sự chỉ dẫn của vô thức.
Như vậy, thế giới “vô thức” nằm sâu và chìm khuất ngoài tầm kiểm soát của tầng “ý thức”. Ở đó, con người xuất hiện những khả năng siêu phàm, tiên tri được những điều mà người bình thường không làm được. Những năng lực này của con người là có thật, nhưng nó nằm sâu ở tầng vô thức cần được phản ánh và lý giải. Những nhân vật tiên tri trong sáng tác của Haruki Murakami đã tạo nên một sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, gây nên sự tò mò muốn theo dõi số phận các nhân vật có đúng như tiên đoán của các nhân vật tiên tri hay không. Phản ánh hiện thực cuộc sống, Haruki Murakami đã để cho các nhân vật tiên tri làm nhẹ bớt đi những tấn bi kịch trong cuộc sống mà họ gặp phải. Bởi nhân vật có một điểm để bấu víu, đó là do số phận và những gì đã được tiên tri từ trước. Tuy nhiên, dù có một bàn tay vô hình nào sắp đặt thì con người vẫn có cuộc sống riêng và mỗi người nên tìm ra một lẽ sống, tự tin vào chính mình, vào cuộc đời để mọi người được sống hạnh phúc hơn.
2. Vô thức với giấc mơ
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa vô thức và giấc mơ, hầu hết các nhà phân tâm học và các nghệ sĩ đều cho rằng, vô thức luôn gắn bó với giấc mơ. Theo S.Freud, người nghệ sĩ giải thoát những khát khao của mình bằng giấc mơ hay tưởng tượng và tác phẩm văn học, trước hết là một giấc mơ. Là “con đường hoàng đạo” dẫn đến vô thức, giấc mơ đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm thức con người và trong văn học. Trong cuốn Phân tâm học nhập môn, S.Freud cho rằng: “Chúng ta chấp nhận rằng, trong đời sống tinh thần có những gì tiềm tàng mà chúng ta không hề biết đến và có lẽ không bao giờ biết đến. Nếu như thế thì sự vô thức phải có thêm một nghĩa khác: đặc trưng của nó không còn là nhất thời hay hợp thời nữa mà là thường trực” [2, tr.132]. Chính nhà văn H.Murakami đã từng nói rằng, ông sáng tác trong mơ, nhưng là “giấc mơ tĩnh”. Thông qua giấc mơ trong vô thức, con người có điều kiện để bộc lộ những điều thầm kín, bản năng và khát vọng của mình mà trong đời sống thực không thể thực hiện được. Trong tiểu thuyết của ông, nhà văn thường nói đến những giấc mơ gắn với thế giới vô thức. Những giấc mơ luôn được biểu hiện dưới dạng hình ảnh tượng trưng, những ý tưởng được che đậy để thực hiện cái vô thức.
* Giấc mơ khát vọng
Theo lý giải của S.Freud và những môn đệ của ông, con người có nhiều loại giấc mơ và đều bị chi phối bởi vô thức. Bên cạnh giấc mơ nhằm thỏa mãn, giải tỏa ức chế mang tính bản năng, thì giấc mơ khát vọng nhằm hướng con người đến những điều tốt đẹp, cao cả trong cuộc sống. Nhân vật Okada (Biên niên ký chim vặn dây cót) trải qua những giấc mơ triền miên mỗi khi anh ta xuống giếng. Nếu mặt đất (thực tại) đối với Okada là những thất bại, bế tắc trước cuộc đời thì đáy giếng (nơi diễn ra những giấc mơ) là nơi để anh lánh mình và chìm đắm trong những giấc mơ. Nhờ những giấc mơ đó, Okada tìm lại chính mình, tìm thấy những mắt xích liên hệ với thế giới nội tại để tìm ra con đường chân lý đúng đắn mà anh cần phải “dấn thân”, “nhập cuộc”. Từ giếng cạn Okada mơ về căn phòng 208, về Wataya Noboru và Kimiko: “Trước bình minh lên, dưới đáy giếng, tôi nằm mơ... Tôi đang đi một mình. Bộ mặt của Wataya Naboru chường ra trên màn tivi lớn đặt giữa một gian tiền sảnh rộng... sắp tuyên bố điều gì đó quyết định vận mệnh của tất cả” [1, tr.281]. Cũng qua giấc mơ, Okada không chỉ khám phá ra nhiều sự thật mà còn tìm thấy Kimiko - vợ của anh và hóa giải được lời nguyền đè nặng lên Mamiya. Vợ chồng Okada gặp lại nhau, Mamiya tìm thấy hạnh phúc gia đình của mình với Creta và có con - đó chính là mong ước, là khát vọng mà nhân vật Okada luôn nung nấu và đấu tranh để thực hiện.
Trong Rừng Nauy, Toru Watanabe có nhiều giấc mơ gắn với hình ảnh Naoko. Đối với anh, Naoko - một người con gái đẹp, có nghị lực, nhưng chịu nhiều thiệt thòi, gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống, nên cần được chia sẻ, bù đắp. Vì thế, sau khi Kizuki - người yêu Naoko qua đời, Watanabe trở thành người gần gũi, thân thiết của Naoko. Trong hữu thức cũng như vô thức (giấc mơ), Watanabe luôn vắt kiệt sức mình cố gắng giúp đỡ để Naoko trở lại cuộc sống bình thường sau nhiều biến cố làm cho nàng sắp gục ngã. Những việc làm của Watanabe trong thực tại lẫn trong mơ đã phần nào làm cho Naoko cảm động và biết tin yêu cuộc sống để tiếp tục trên con đường khó khăn đến tương lai.
Những giấc mơ khát vọng đã thể hiện niềm tin vào cuộc sống vào tương lai tốt đẹp ngày mai của các nhân vật, đối lập với thực tại đầy rẫy những bất công, cạm bẫy và tội lỗi. Từ những “giấc mơ đẹp”, các nhân vật của H.Murakami như được tiếp thêm sức mạnh, tự tin vào bản thân, hướng đến tương lai để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Đây cũng là cuộc hành trình của con người đến với những giá trị chân thiện mỹ.
3. Vô thức với cái tôi đa ngã
Trong thực tế và trong sáng tác văn học, con người đôi khi phân thân thành nhiều cái tôi khác nhau. Sự hiện hữu của cái tôi đa ngã trong hiện tại và vô thức cũng là một biểu hiện khác của phân tâm học. Ở tiểu thuyết H.Murakami, một số nhân vật có những cái tôi khác nhau, đối lập, song hành và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là các cặp: cái tôi bản năng - cái tôi lý trí, cái tôi thể xác - cái tôi linh hồn, cái tôi hữu thức - cái tôi vô thức... Chính cái tôi đa ngã này tạo nên sự phong phú, đa chiều nhằm giải thích bản thể con người ở tầng vô thức. Những nhân vật như Kafka, Saeki (Kafka bên bờ biển); Okada, Kano Kreta,Wataya Noboru, Akasaka Quế (Biên niên ký chim vặn dây cót) và Miu (Người tình Sputnhik)... có những cái tôi khác nhau, tồn tại ở những hoàn cảnh khác nhau.
Nhân vật Kafka có cuộc đấu tranh quyết liệt giữa: con người bản năng và con người lý trí, con người hiện hữu (Kafka) với tiếng nói từ vô thức (Quạ). Nếu con người lý trí ràng buộc, chế ngự Kafka trong khuôn khổ vốn có của cuộc sống và đạo đức xã hội, thì con người bản năng luôn có xu hướng vi phạm, phá bỏ những quy tắc của con người lý trí. Ngược lại, con người lý trí - là tiếng vọng trong lòng - lại đưa ra những lời khuyên, trách móc, đánh giá, thậm chí chửi bới để níu kéo nhân vật trở về với thực tại, với những chuẩn mực đạo đức định sẵn. Sự đối mặt giữa bản năng vô thức và ý thức diễn ra quyết liệt, gay gắt càng bộc lộ chiều sâu tâm lý nhân vật. Cuối cùng, trong cuộc đấu tranh này, bản năng vô thức đã đánh gục con người ý thức trong Kafka. Kết thúc tác phẩm Kafka bên bờ biển, dù tìm ra được hòn đá thiêng đậy cửa hang - nơi lưu giữ những bí mật - nhưng Nakata chết, còn Kafka trở thành “một bộ phận của một thế giới mới toanh”. Tiếng nói từ bên trong thông qua nhân vật Quạ (bản ngã thứ hai của Kafka) đã đối lập con người bản năng và con người ý thức trong Kafka.
Trong nhân vật Miss Saeki cũng xuất hiện cái tôi đa ngã, nhưng cách biểu hiện và hành động lại không giống như Kafka. Ở Saeki, cái tôi quá khứ tuổi thanh xuân đối lập cái tôi hiện tại ngoài ngũ tuần, cái tôi già nua với cái tôi trẻ trung nhiều đêm đến với Kafka. Chính Kafka đã yêu cái tôi tuổi mười lăm hiện hữu trong thân xác Saeki. Sống trong hiện tại, nhưng Saeki thường hoài niệm về thời quá khứ của tuổi thanh xuân gắn với bức chân dung, bức tranh vẽ Kafka và những bản âm nhạc.
Những nhân vật Okada, Kano Kreta (Biên niên ký chim vặn dây cót) cũng có nhiều cái tôi. Nếu ở Okada có sự đối lập giữa con người thực tại - con người khi ở dưới giếng; với Kano Kreta là cái tôi nhân văn, khoan dung - cái tôi vô cảm, thì con người hai mặt của Naboru lại được che đậy dưới một bộ mặt “bóng bẩy”. Con người trên thực tế của Okada đối mặt với gia đình, công việc rất căng thẳng, mệt mỏi, còn khi ở giếng anh ta đã lột xác phiêu diêu khắp nơi để tìm vợ và con mèo bị mất. Mượn bóng tối (giếng) để đấu tranh giành lại sự sinh tồn cho mình và mọi người là sức mạnh bản năng của Okada mà trên thực tế anh ta không làm được, thậm chí bất lực. Cái giếng, những giấc mơ như là những chi tiết nghệ thuật mang tính biểu tượng và ẩn dụ của tác giả. Nhà văn cũng chỉ ra một Akasaka Quế, thực tế là một chàng trai thông minh, đẹp trai nhưng mang hình bóng của cậu bé đã mất đi giọng nói từ khi lên sáu. Tiếng nói của Quế mãi mãi đi vào quá khứ gắn với lịch sử đầy đau thương, biến động của dân tộc đã hằn sâu vào ký ức của cậu. Ở đây, thông điệp mà nhà văn muốn nói qua nhân vật: con người dù có hoàn hảo, trọn vẹn đến đâu cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu hụt và trên đời mọi cái chỉ là tương đối.
Trong Người tình Sputnhik, nhân vật Miu và Sumire xuất hiện với nhiều cái tôi khác nhau. Là một người thông minh, thành đạt trong việc kinh doanh, có chồng, nhưng ngược lại, Miu không hạnh phúc và lãnh cảm với tình dục. Do một biến cố trong cuộc đời mà Miu trở thành con người hai mặt. Đó là một Miu trẻ trung, tràn đầy sức sống, đam mê âm nhạc và một Miu già nua, xơ cứng về tâm hồn, mất hết niềm tin vào cuộc sống. Xây dựng loại nhân vật có cái tôi đa ngã, nhà văn H.Murakami muốn qua đó nhấn mạnh và khai thác bản năng con người, đào sâu hơn thế giới nội tâm nhân vật.
Sáng tạo và thưởng thức tác phẩm văn học nghệ thuật là một hoạt động tinh thần mang tính thẩm mỹ cao. Là một văn bản nghệ thuật, tác phẩm văn học được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, mang lại những giá trị đa chiều. Đào sâu vào tầng vô thức của nhân vật, H.Murakami đã sáng tạo nên những nhân vật có cá tính, mang tính khái quát. Vì thế, tác phẩm của ông tuy “khó đọc”, nhưng những vấn đề được đặt ra luôn có giá trị, vượt không gian đến với hàng triệu người đọc trên thế giới.
H.V. L
(SHSDB40/03-2021)
----------------------
1. H.Murakami (2006), Biên niên ký chim vặn dây cót, Nxb. Hội Nhà văn, HN.
2. S.Freud (2002), Phân tâm học nhập môn, Nxb. ĐHQG Hà Nội.
NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.
NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.
HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.
NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.
HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.
ĐOÀN TRỌNG HUY
Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.
NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.
THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.
TÙNG ĐIỂNLTS: “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.
PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.
PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.
TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).
HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).
VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.
TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.
LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.