Thế giới siêu thực trong thơ Ngô Kha

15:40 24/10/2011
TRẦN THỊ MỸ HIỀN Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 - 1959), tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa (1962), sau đó dạy văn và giáo dục công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ 1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.

Nhà thơ Ngô Kha - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Là một nhà giáo, một trí thức yêu nước, có những hoạt động nổi bật trong các phong trào của học sinh sinh viên miền Nam trước 1975 nhưng cho đến giờ, cuộc đời ông vẫn là một chuỗi những dang dở (chưa tìm thấy xác nhà thơ). Trong các tài liệu trước giờ, nhiều người vẫn thường nhắc đến Ngô Kha trong vai trò một trí thức yêu nước, một liệt sĩ và là một nhà thơ dấn thân. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi sẽ mở ra một khía cạnh khác trong thế giới nghệ thuật thơ Ngô Kha. Đó chính là thế giới siêu thực trong thơ của tác giả này.

Ngoài vai trò một thầy giáo, một người đấu tranh trong các phong trào yêu nước, Ngô Kha còn là nhà thơ có bút pháp độc đáo. Cho đến nay, khi nhìn lại toàn bộ sự nghiệp thơ ca, ta thấy Ngô Kha có một điểm vô cùng nổi bật, ông là một trong số ít những nhà thơ miền Nam lúc bấy giờ hòa nhập vào dòng thơ siêu thực. Các tác phẩm ấy tuy đương thời không được nói đến nhiều (vì lý do thời cuộc), nhưng có thể nói Hoa cô độc Ngụ ngôn của người đãng trí là hai tập thơ đáng nhớ nhất khi nhắc đến Ngô Kha. Ngoài ra, nhà thơ còn có Trường ca hòa bình và một số bài thơ khác in rải rác trên các tạp chí miền Nam.

Như đóa hoa nở giữa sa mạc, người trí thức Ngô Kha - thầy giáo dạy văn trường Quốc Học và các trường khác ở Huế ngày ấy đã tạo ra tiếng nói riêng trong các tập thơ của mình. Trong không khí ồn ào nóng bỏng của thời cuộc, năm 1961 Ngô Kha cho ra đời Hoa cô độc như bước đánh dấu cho sự nghiệp thơ ca. Hoa cô độc gồm các bài thơ như Đêm 30, Có gì đẹp hơn yêu em, Người con trai, Tiễn em, Ưu tư, Khúc ca tình yêu
(1)... Nó cho thấy trái tim tươi nguyên của chàng thanh niên còn nhiều hy vọng ở cuộc đời. Những vần thơ tuy có hơi hướng siêu thực nhưng vẫn còn đó cái trong sáng, nhẹ nhàng và hết lòng với cuộc sống. Như hạt giống ươm mầm, năm 1969 ông cho ra đời Ngụ ngôn của người đãng trí, dấu chấm lửng giữa cuộc đời. Tập thơ làm nên tên tuổi ông với tư cách nhà thơ ngoài vai trò người thầy giáo trong trường Quốc Học. Tìm đến thế giới siêu thực, Ngô Kha xem đó là cách thể nghiệm sự suy nghĩ, hòa trộn giữa thực và mộng, nhập vào thế giới mới hơn để tìm ra không gian riêng cho mình.

Mở đầu hành trình thơ ca với Hoa cô độc, tác giả đưa chúng ta vào một miền âm u, chật chội nhưng có khi cũng rộng đến vô cùng. Thế giới siêu thực dường như chỉ tồn tại hai miền sáng tối, nhưng nếu siêu thực của Hàn Mặc Tử là một thế giới toàn năng bởi ánh trăng, cái trăng sáng ngời, cái trăng nhập nhoạng và mờ ảo thì thế giới của Ngô Kha lại bao trùm bởi bóng tối, bóng tối của hư vô, trường cửu như cái đại lộ thăm thẳm của cuộc đời. Đại lộ ấy giống như một dòng sông đêm trải dài muôn nẻo, mang đến bao nhiêu đau thương cuồng nộ, tăm tối, hoang rợ. Dòng sông đêm rồi sẽ mang ta về đâu - một bến bờ vô định không tìm ra nẻo tới trong chuyến hành trình? Thế giới mà Hoa cô độc mang đến chất đầy những bóng đêm, một loại chất đậm đặc không tách chiết ra được như từng hạt sát na của vũ trụ - một vũ trụ nguyên sơ mới tạo hình! Ở đó bóng tối bao trùm như chúa tể vạn năng làm vầng mặt trời cũng méo mó, đớn đau, tan vỡ:

“đại lộ dòng sông đêm/ mặt trời vô hình tan vỡ/ suối đau thương đường phố/ nhớ nhung bơ vơ…”
(Đêm 30).

“mưa điên cuồng gió loạn/ bóng đen làm mặt trời”
(Bài thơ hôm nay).

Bản thảo cuộc đời, bản thảo địa đàng vẫn mãi hoang vu, nguyên sơ, trinh bạch. Ở đó cũng có cuộc sống nhưng thấp thoáng bóng hình của con người thuộc hai thế giới đối lập nhau: hoặc rất ngây thơ trong trẻo, hoặc rất khổ đau, tang thương và hoang dã… Thế giới ấy có những mảng đối lập vô cùng lạ lẫm, mọi vật như có linh hồn và thức tỉnh rất tinh khôi. Thực và mộng, thiên đàng và hạ giới, lịch sử và tương lai trong phút chốc nhập thành một:

“Ta đã từ quê hương xa lắm/ Như vị thần lạc nẻo trời cao/ Quay về đây tinh tú hôm nào/ Từ vô cực trở về hạ giới/ …/ Trời thủy tinh đổ vỡ tan tành/ Muôn ánh mắt tìm về vực thẳm”
(Ưu tư).

Giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn có chỗ cho những khoảng âm u, mờ nhạt, nhưng chút ánh sáng le lói không đủ sức để thắp sáng một linh hồn, không thể làm tan hết bóng đêm nặng trịch và tàn nhẫn kia. Người con trai thấy mình lạc vào một cõi nào xa lắm, anh chìm vào giấc ngủ vạn kỷ để rồi khi tỉnh dậy cũng chỉ thấy hoang liêu, ngơ ngác trước cuộc đời. Và trong cuộc hành trình ấy, anh vẫn đi tìm em như khát khao tìm thấy chút ánh sáng mong xua đuổi bóng đêm trong tâm hồn. Còn gì cô đơn hơn sự hoang liêu của chính tâm hồn mình? Cái hồn của cảnh nhập vào cái tình của người càng làm cho nỗi hoang liêu càng thêm xa vắng:

“Bàn tay tâm sự bỗng thấy hoang liêu/ Rừng cây sâu thêm đau niềm căm tức/ Lưng trời phiêu bạt thơ thẩn về đâu/ Sương rơi trên đầu ướt triền má em/ Tâm tình dứt, khúc nhạc cũng buồn nôn/ Bâng khuâng ga nhỏ tàu cũng đi luôn/ Bầu trời cô đơn buồn dâng kín lối”
(Tiễn em).

Thế giới ấy thẳm sâu vô cùng, khó ai nhìn thấy nếu không co thắt hết biên độ của sự nhạy cảm. Ngô Kha là người đã làm được điều đó. Với một con người khi sinh ra trên đời vốn dĩ đã rất cô đơn, thì còn gì cô đơn hơn là cái chết - tận cùng của niềm đơn độc. Thế nên tìm đến với cô đơn là tìm về với bản thể của chính mình. Bởi tự mệnh danh là Hoa cô độc nên trong thơ ông xuất hiện rất nhiều nỗi ám ảnh về cái chết và sự cô độc. Người đọc sẽ không khỏi ám ảnh khi bắt gặp những từ như mồ bia, điếu văn, linh hồn, vành khăn tang, mồ rêu cỏ mọc, băng hà, mồ hoang, chết, hỏa ngục… Phải chăng chính tâm thức đặc biệt đó mà đôi khi trong các bài thơ tác giả đã nhìn thấy được trước cái chết của mình?

Ngoài cảm thức đặc biệt về thế giới, nguyên nhân thứ hai khiến hồn thơ thi sĩ phát tiết tinh hoa phải chăng là vết thương không bao giờ liền sẹo. Nó có tác động rất lớn tới tâm hồn, là mạch dẫn vô tận đến suối nguồn của vô thức, trong cái thẳm sâu của con người. Ai đó đã nói rằng, khi yêu người ta như được trở về với cội nguồn của mình. Bởi nhìn đâu họ cũng thấy đẹp, thấy yêu thương và gắn bó với mọi người, sẽ không có cảm giác cô độc. Có lẽ vì thế mà khi thất tình con người có cảm giác mình đang bị bứt ra khỏi nguồn cội chăng? Họ luôn thấy bơ vơ, lạc vào một cõi vô hình nào xa xôi lắm. Đó phải chăng là thế giới thẳm sâu trong mỗi chúng ta?

phượng cầu hoàng/ héo hắt chờ đợi/ dù phượng hoàng chúa tể chim trời/ yêu tiếng nói tuyệt vời/ anh còn yêu em mãi…” (Có gì đẹp hơn yêu em).

Thế giới tình yêu trong thơ ông mới đẹp đẽ, thanh khiết làm sao, như huyền thoại, tình yêu vốn gắn liền với thế giới tuyệt đẹp mang sắc thái thượng giới. Đó là đỉnh cao của mơ ước nhưng rồi ngay sau đó lại phải đối mặt với một thực tế phũ phàng. Kẻ thất tình như lạc vào mê cung tình yêu không tìm thấy lối ra bởi bóng tối của hoang liêu và ngờ vực:

“em bỏ ra đi/ những ngọn đèn tím đỏ/ viễn phương còn là thành phố…/ nếu được gần em/ chỉ cần một âm giai/ thì chúng ta đâu còn đơn lẻ”
(Người con trai).

Con đường yêu đương giờ biến thành bức họa đồ quanh co, không còn tìm thấy lối ra. Người con trai ấy chếnh choáng, cô đơn, khô gầy không còn chút niềm tin. Anh với tay hái lấy vầng trăng ngày ấy, vầng trăng anh từng tôn vinh và thèm khát ném xuống giữa cuộc đời. Khi choàng tỉnh khỏi cơn mơ, tất cả chỉ còn là niềm cô độc. Phải chăng đó chính là tâm thức chung vốn tồn tại trong mỗi chúng ta khi đến với cuộc đời này?

Cuộc hành trình trong miền tâm thức ấy tuy chưa thật sự về đến đích nhưng cũng để lại sức lay động rất lớn, tạo ra nhiều ám ảnh, dư ba. Về thế giới thơ trong Hoa cô độc, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng có nhận xét: “Những năm đầu thập kỷ 60 ấy, ngày tháng sao như dài hơn và Ngô Kha đã rong chơi khắp miền để kết bạn phong trần với loài phù du để rồi trở về ngồi nhìn cái bóng đơn chiếc của mình đổ dài trên đất rừng trơ hốc đá, nơi một sườn đồi hoàng hôn trên sông Hương… Cái nhìn chính mình, Ngô Kha đã bắt gặp trên cánh đồng hắt hiu của linh hồn chàng một loài ác hoa mọc lên từ bao giờ. Chàng âu yếm gọi nó là “Hoa cô độc”. Hành trình của chàng khởi đầu với niềm kiêu hãnh thầm kín của bông hoa ấy”
(2).

Sang Ngụ ngôn của người đãng trí tác giả lại đưa chúng ta vào một miền siêu thực khác. Đó không còn là thế giới âm u tăm tối mà là cái mơ hồ, vô định trong thế giới tâm thức của một người đãng trí. Không thực sự âm u nhưng cũng không hoàn toàn sáng sủa, nó mang mang một cái gì khó tả như sự hòa trộn giữa thực và mộng. Tập thơ cho thấy sự vượt bậc về bút pháp siêu thực của Ngô Kha trong toàn bộ các sáng tác của mình. Nếu Hoa cô độc tạo nên một thế giới siêu thực trong tâm trạng, “bản tốc ký tâm trạng trên bản thảo cuộc đời” không có dấu vết của sự bôi xóa thì đến Ngụ ngôn của người đãng trí, thế giới siêu thực không đơn giản chỉ tồn tại trong nội tâm mà tuôn chảy từ dòng ý thức của một kẻ đãng trí. Nếu Hoa cô độc siêu thực bằng những hình ảnh nhẹ nhàng, những cung bậc cảm xúc trải đều trong tâm thức thì Ngụ ngôn của người đãng trí là bản phối lạ với những hình ảnh, những mảng màu bất chợt rời rã nhưng lại được liên kết với nhau một cách tự nhiên trong cùng một mạch liên tưởng. Ta như lạc vào một miền đất lạ, một thế giới hoang sơ với những con người vô tư, say rượu, những kẻ hành khất… Phải chăng đó là chốn trú ngụ bình yên, sẽ không có lý trí nào có thể điều khiển được họ, tất cả đều là ngẫu nhiên. Nếu ai đó nói rằng “thơ Ngô Kha là một nỗi cô đơn trên cuộc hành trình dằng dặc đi tìm chính mình
(3) thì Ngụ ngôn của người đãng trí là một chặng dài trên nẻo đường thiên lý ấy.

Vì là thế giới trong tâm thức của người đãng trí nên không có gì là cố định và cụ thể. Ta có cảm giác đang xem một thước phim bị mắc lỗi kỹ thuật không liền mạch, luôn có những chắp nối, chồng chéo lên nhau. Các hình ảnh liên tục chạy ra theo dòng tâm thức của người đãng trí. Chỉ với chương một của trường ca mà có tới hai mươi lần cụm từ “kẻ đãng trí” xuất hiện. Những khoảng lặp rất tình cờ nhưng rất đúng với dòng ký ức ấy. Nó loạn nhịp, lộn xộn không theo một trật tự nào. Người đọc như đang đọc một bài diễn văn dài được viết bởi một nhân vật “đặc biệt” có tâm tư “không mạch lạc”. Thế giới tinh thần của “người đãng trí” thật tinh khôi, hoang sơ và hồn nhiên đến vậy. Ta như lạc vào một thế giới xa xăm của loài người thuở hồng hoang nguyên thủy - thiên nhiên cảnh vật đều hoang sơ như chưa từng có bàn tay tạo dựng của con người:

“khúc hát ngu ngơ của bông lau/ tháng giêng giã từ thuốc đắng đi tìm cỏ may/ tôi không thấy nàng mặc áo chim/ chỉ có người hư vô và mặt trời/ tôi đếm dấu chân nai trên bản chúc thư tình yêu/ có những con đường mang tên em chưa ra đời/ những con đường mọc đầy cây ma túy…”
(Ngụ ngôn của người đãng trí).

Thế giới ngụ ngôn là thế giới siêu thực bắt đầu bằng chiêm cảm. Điều khiến ta chú ý trong thế giới này là dường như tất cả mọi vật, từ cỏ cây đến vũ trụ, đến những sinh thể nhỏ bé nhất đều có linh hồn, đều mang theo hơi thở hồn nhiên nguyên sơ nhất của vũ trụ. “Khúc hát ngu ngơ của cây bông lau”, rồi “tháng giêng giã từ… đi tìm cỏ may”… nghe sao mà thân thương, trong trẻo và bình yên đến lạ.

“người say rượu quỳ bên gốc cây già/ uống ánh mặt trời và dòng phù sinh vô tận”
(Ngụ ngôn của người đãng trí).

Con người trong thế giới ấy bỗng chốc trở nên thật kỳ vĩ, hòa nhập vào thiên nhiên, vũ trụ một cách tuyệt đối. Nó gợi cho ta sự hình dung về một thế giới siêu nhiên, ở đó con người giống như những thiên thần, thật lung linh huyền ảo. Dấu ấn đó còn hiện lên rõ ràng hơn qua những câu thơ:

“sau tàng cây khổ hạnh người say rượu lõa thể như một chiếc lá sen/ đứa con trai thì mọc đầy lông vũ…”


Đây đúng là thời hồng hoang nguyên thủy của loài người, tất cả mang màu sắc tự nhiên, thanh khiết. Nhưng thế giới ấy vẫn tiềm ẩn sự đối lập. Đó là sự đối lập giữa thực và mộng, giữa cái thanh khiết và cái dữ dội. Có những hình ảnh gợi lên cho ta sự rùng rợn không thành cụ thể nhưng khó thể nào quên:

“mùa hè có tuyết đen thật đẹp/…/ tôi một mình với cơn cuồng nộ của mùa hè/ đà điểu cắp cánh tay người yêu tôi đi/ chiếc nhẫn cưới bay mất/ tôi không còn cuộc hôn nhân kỳ dị/ người con gái đâm mù mắt tôi/ bằng hai quả trứng vàng…”


Tác giả như đang dẫn ta vào trong một giấc mơ dài, đi hết miền đất này qua vùng sa mạc khác, càng đi càng rùng rợn, càng rời xa thế giới của hư vô nguyên sơ ngày nào.

Ngụ ngôn của người đãng trí
mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực, như tiếng thét dữ dội, mãnh liệt của con người trước khi từ bỏ một cái gì đó, giống như tiếng hót cuối cùng của con chim sắp từ giã cõi đời. Nó vươn cổ, trút hết sinh lực và để lại tiếng ca cho đời thêm tươi đẹp. Cùng cảm nhận đó, ta thấy Ngô Kha đã đạt được thành công nhất định khi ra mắt tập thơ này. Có lúc ta thấy tác giả thoát ra khỏi vùng trời siêu thực trở lại thực tế đớn đau của tâm hồn, một tâm hồn rách nát bởi vết thương tình chưa liền sẹo, cộng thêm hiện thực đau khổ khốc liệt của cuộc chiến bên ngoài. Điều đó tạo nên một sự thôi thúc vượt thoát khỏi lý trí, giống như những chiếc đập nhỏ ngăn cản dòng nước đang êm đềm, tạo nên sự mãnh liệt cho dòng thác nội tâm tuôn chảy. Người đọc có thể thấy rõ điều đó trong suốt các chương của cuộc hành trình đi trong vô thức. Cứ sau mỗi chương đoạn có sự xen kẽ những dấu hiệu của thực tại thì ngay sau đó những cung bậc của nội tâm ngày càng thêm dữ dội - một thủ pháp tâm lý hết sức tự nhiên và mang lại hiệu quả nghệ thuật đặc sắc.

Thế giới trong Ngụ ngôn của người đãng trí là thế giới của mộng, của chiêm bao, và hơn cả, nó được khúc xạ qua tầng vô thức của một kẻ đãng trí nên hư vô càng tiếp hư vô, siêu thực lại càng trở về siêu thực. Đó là một giấc mơ dài đi từ ngày này qua ngày khác, dẫn ta từ cõi trời này đến cõi trời khác. Và nói như Freud, giấc mơ luôn bị điều phối bởi vô thức, nó là tầng lớp sâu nhất trong tâm thức mỗi chúng ta. Với Ngụ ngôn của người đãng trí, Ngô Kha bị điều khiển bởi phần vô thức ấy nên mạch cảm xúc cứ tuôn trào. Tất cả những gì của thực tại đều mang bóng dáng của giấc mơ và chìm sâu vào ký ức. Đến lúc tuôn ra giống như suối nguồn vô tận không có mãnh lực nào có thể ngăn cản nổi. Về ý này ta thấy Ngô Kha có một ý thơ giống Hàn Mặc Tử: “tôi hay nói chuyện về những dòng chữ ngụ ngôn/ những dòng chữ chảy từng hàng não sống/ trên chiếc máy in hùng hồn của thác nước/ những dòng chữ khai sinh..” Các nhà thơ siêu thực thường hay nói về những con chữ của mình như thế. Hàn từng viết: “Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/ Mỗi lời thơ đều dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như mê man chết điếng cả làn da” (Rướm máu).

Cái hàng não sống ấy chính là máu, là hồn, là tinh lực của thi nhân truyền vào mỗi vần thơ của mình. Họ sáng tác trong những trạng thái xuất thần, hoàn toàn vượt thoát khỏi lý trí và sự kiểm soát của cảm xúc. Đến đây ta lại nhớ đến Tinh huyết của Bích Khê, cũng là một trong những cây bút siêu thực xuất hiện trong thi đàn Thơ Mới lúc bấy giờ. Cả Bích Khê, Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử cùng nằm trong Trường thơ Loạn. “Loạn” ở đây không giống như sự nổi loạn thông thường mà “loạn” trong chính cái thế giới của họ, thế giới của tâm thức và tiềm thức. Thơ xưa nay sáng tác dựa trên các kỹ thuật câu cú thì đến bây giờ cái “loạn” ấy lại đề cao yếu tố tự động, viết như dòng thác ký ức đang tuôn chảy dạt dào. Đó giống như một quá trình thoát thai đau đớn và dữ dội những hình ảnh vốn nằm sâu trong vô thức của mình. Chính vì thế nếu Hàn Mặc Tử ngày xưa thoát lên “thượng tầng thanh khí” thì Ngô Kha không nói ông đang ở chỗ nào, chỉ biết thế giới trong thơ ông đã “nằm ngoài vùng phán xét của con người”, nghĩa là không ai có thể lấy kinh nghiệm bản thân để hiểu và phán xét nó. Xưa kia Hàn Mặc Tử có Thơ điên thì Ngô Kha ngày nay có Ngụ ngôn của người đãng trí. Tuy cùng nằm trong cùng một trường nghĩa là đánh mất lý trí nhưng chính cái đãng trí đó mới thật sự là Ngô Kha. Nghĩa là ông không hoàn toàn mất trí, không “điên”, mà đãng trí là một trạng thái của tinh thần trong một giai đoạn nào đó của con người. Đãng trí nên có sự nhập nhằng giữa mơ và thực, giữa thiên đàng và hạ giới… Và đó chính là nguyên nhân và cũng là bước đệm cho những chuyển biến trong thơ Ngô Kha trong những tập sau này.

T.T.M.H
 
(272/10-11)


-----------------------------
1. Theo nhóm sưu tầm của quyển “Ngô Kha - ngụ ngôn của một thế hệ”, tập thơ gồm 18 bài.
2. Võ Quê, Thi sĩ Ngô Kha - trung thực một đời thơ, trong Ngô Kha - Ngụ ngôn của một thế hệ (2005), Nxb Thuận Hóa, tr 243.
3. Ngô Minh, Ngô Kha - một cõi tang bồng, trong Ngô Kha - Ngụ ngôn của một thế hệ (2005), Nxb Thuận Hóa, tr 285.







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.