Ray Bradbury (1920 - 2012) là nhà văn lừng danh của Mỹ, tham gia văn đàn và thế giới điện ảnh sôi nổi trong suốt hơn 7 thập kỷ. Ông đã viết 27 tiểu thuyết và hơn 600 truyện ngắn. Truyện ngắn The Veldt (Thảo nguyên châu Phi) là một tiên đoán về mặt trái của công nghệ đang phần nào chạy theo những nhu cầu phi nhân bản của con người.
Nguồn ảnh: wiki
RAY BRADBURY
“Anh George, để tâm tới nhà thiếu nhi một tí đi. Em ước gì anh coi kĩ lại mọi thứ, hoặc mời một nhà tâm lí học khảo sát lại nó.”
“Được, chúng ta cùng đi.”
Hai vợ chồng cùng bước xuống tầng đại sảnh của Ngôi nhà Sống Vui có hệ thống cách âm, nơi đã được lắp đặt với giá 30.000 đô la; ngôi nhà này là nơi họ ăn, ngủ, chơi đùa và ca hát; nói chung, nó rất tốt cho họ. Và rồi, đèn nhà thiếu nhi tự động bật sáng khi họ bước tới gần. Tương tự, phía sau lưng họ, trong các sảnh lớn, đèn tự động tắt khi họ đi qua.
“Được đấy,” George nói với vợ.
Họ đứng lại trên sàn nhà lót rạ của khu nhà thiếu nhi. Bây giờ nó trống vắng như cánh rừng trưa nóng nực. Những bức tường trơn tru và vuông vức hai chiều; giờ đây, khi George và Lydia đứng chính giữa căn phòng, những bức tường bắt đầu kêu “rừ rừ”, rồi lùi lại ở một khoảng cách trong suốt. Đoạn, xuất hiện trước mắt họ một thảo nguyên châu Phi ở không gian ba chiều, ở tất cả các phía, trong màu sắc tái tạo tuyệt mĩ của từng viên sỏi, đồng thời có cả một ít rơm rạ rải rác. Phía trên cao, trần nhà trở thành bầu trời cao hun hút. Nắng oi bức, vàng cháy.
George cảm thấy mồ hôi bắt đầu chảy thành dòng trên lông mày. “Đi đi em, nực quá,” anh thốt lên. “Anh thấy nó vượt quá xa so với hiện thực. Nhưng không thấy sai lầm chỗ nào.”
“Chút nữa anh sẽ thấy,” vợ anh hạ giọng.
Bây giờ, các vi thể tạo mùi ẩn giấu đâu đó đang bắt đầu thổi một làn gió vào hai người ở giữa vùng đất thảo nguyên nhiệt đới. Nào mùi rơm ấm nóng, nơi sư tử nằm; nào mùi nước thoang thoảng của những hố nước ẩn khuất; nào mùi ngai ngái kì lạ của muôn thú vật, và đâu đó có cả mùi bụi bặm ngút trời tựa như mùi ớt cựa gà trong không gian nóng bức. Và bây giờ, xuất hiện đủ loại âm thanh: hết tiếng nện thình thịch từ xa của đàn linh dương chạy bươn mình trên bãi cỏ, lại tiếng sột soạt đập cánh của bầy kền kền. Một bóng đen lượn qua bầu trời.
“Đám sinh vật bẩn thỉu,” anh nghe vợ nói.
“Lũ kền kền đó.”
“Bầy sư tử ở đằng xa đến theo con đường đó. Bây giờ chúng đang đến các hố nước. Chúng vừa mới nhai mồi,” Lydia nói. “Ôi, em chả biết thứ gì đang đến gần.”
“Một loại động vật nào đó.” George đưa tay lên che ánh nắng đang thiêu đốt đôi mắt lác của mình. “Một con ngựa vằn, hoặc hươu cao cổ còn non.”
“Chắc không anh?”
“Không, nó diễn ra nhanh quá, anh không chắc lắm.”
“Anh có chịu nổi tiếng la hét kinh khủng đó không?” Bà xã anh hỏi.
“Khiếp quá,” anh đáp.
Bầy sư tử đang đến. Và một lần nữa, George tràn ngập sự thán phục đối với những thiên tài khoa học đã hình thành nên căn phòng này. Đây là bầy sư tử đang hiện hữu, chỉ cách 15 bước chân, rất thực - thực đến mức gây sốt -và thực sự đáng kinh ngạc đến mức bạn có thể cảm thấy bộ lông của chúng ngứa ngáy trên tay chân mình; và thoang thoảng đâu đó, ta ngửi được mùi thịt tươi tanh tưởi từ cửa miệng chúng tỏa ra, hổn hển và nhễu nhại.
Chúng đứng nhìn George và Lydia với ánh mắt vàng xanh khủng khiếp.
![]() |
Minh họa: NGUYỄN DUY LINH |
“Coi chừng!” Lydia hét lên.
Bầy sư tử chạy đến bên họ.
Lydia bắt đầu chạy. Theo bản năng, George lao theo.
“Khiếp quá! Chúng vồ lấy vợ chồng mình!”
“Lydia! Hãy nhớ rằng đó chỉ là những bức tường; những bức tường trong suốt, chả có gì khác cả… Để anh lau nước mắt cho em.”
“Em hoảng quá.” Cô run rẩy áp người vào vai chồng, khóc ngất. “Anh thấy chưa? Nó quá thực, em không chịu nổi. Anh phải dặn Wendy và Peter đừng đọc thêm điều gì về châu Phi nữa.”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Tại sao chúng ta không đóng cửa trong vài ngày để đi nghỉ dưỡng một thời gian?”
“Ý em là muốn tận tay chiên trứng cho anh?”
“Dạ.”
“Giặt tất luôn?”
“Dạ.”
“Rồi em quét dọn nhà cửa nữa?”
“Dạ, đúng vậy.”
“Nhưng anh nghĩ đó là lí do chúng ta mua ngôi nhà này, để chúng ta khỏi phải làm những việc ấy mà?”
“Em cảm thấy như em không thuộc về ngôi nhà này. Nhà bây giờ vừa là vợ, vừa là mẹ, rồi làm bảo mẫu luôn. Và thời gian gần đây, em thấy anh âu lo, tư lự thế nào ấy.”
“Chắc tại anh hút thuốc nhiều thôi.”
“Trông anh như thể không biết phải làm gì với chính mình trong ngôi nhà này.”
“Anh ư?” George dừng lại, cố gắng tự cảm nhận bản thân trong thời gian qua.
“Bầy sư tử không thể ra khỏi nơi đó, đúng không anh?”
Anh nhìn vào cánh cửa, thấy nó rung lên như thể có thứ gì đó đã nhảy dựng đứng lên để chống lại nó từ phía bên kia.
“Tất nhiên rồi.”
*
Trong bữa ăn tối, vợ chồng họ ngồi đối diện với thức ăn.
“Chúng tôi chưa có xốt cà chua,” anh nói.
“Xin lỗi,” một giọng nói nhỏ từ trong bàn ăn vọng lên, và xốt cà chua xuất hiện.
George ngẫm nghĩ, đối với nhàthiếu nhi, sẽ không hại gì cho tụi nhỏ nếu đóng cửa nó một thời gian. Đáng chú ý là làm thế nào nhà thiếu nhi tự động đã nhanh chóng bắt được các hiện tượng thần giao cách cảm của tâm trí trẻ em và tạo ra cuộc sống y như thật đáp ứng mọi mong muốn của chúng. Những đứa trẻ nghĩ tới sư tử, thế là có sư tử. Nghĩ tới mặt trời, có mặt trời.
Cuối cùng, anh nhai một cách vô vị miếng thịt mà cái bàn tự động đã cắt cho anh.
“Giờ anh định đi đâu?”
Anh không trả lời câu hỏi của Lydia. Lòng đầy lo lắng, anh dời gót đến cửa nhà thiếu nhi. Anh đã nghe những âm thanh chống lại nó. Xa xa, một con sư tử gầm lên.
Anh bật khóa cửa và mở cửa ra. Ngay trước khi bước vào bên trong, anh nghe thấy những tiếng thét xa xăm. Và rồi một tiếng gầm khác từ bầy sư tử, nhanh chóng lắng xuống.
George một mình đứng giữa đồng cỏ châu Phi. Bầy sư tử ngước mắt nhìn lên từ nơi chúng đang ăn, và quan sát anh.
“Biến đi,” anh ra lệnh. Nhưng chúng không đi.
Anh biết chính xác nguyên tắc của căn phòng. Bạn gửi vào đó những suy nghĩ của bạn. Bất cứ điều gì bạn nghĩ sẽ xuất hiện. “Hãy xuất hiện Aladdin và cây đèn thần,” anh cáu kỉnh la lên. Các đồng cỏ vẫn hiển hiện; bầy sư tử vẫn không hề rời đi.
“Biến đi!Tôi yêu cầu Aladdinmà!” anh hét lớn.
Nhưng chẳng thay đổi gì. Bầy sư tử lầm bầm trong đống thịt lều bều của chúng.
“Dạ, xin chào ba má.” Wendy và Peter bước vào cửa trước. Ba má chúng cùng lên tiếng: “Tốt! Hai con kịp về ăn tối rồi đó.”
“Tụi con vừa ăn đầy kem dâu và xúc xích,” bọn trẻ nắm tay nhau nói. “Nhưng tụi con sẽ ngồi xem ba má ăn.”
George gật đầu: “Được, ngồi đi, kể rõ cho ba má biết về nhà thiếu nhi.”
Hai đứa chớp mắt nhìn ba, rồi nhìn nhau. “Nhà thiếu nhi sao vậy?”
“Hãy nói về châu Phi và mọi thứ,” ba cậu bé nói với sự vui vẻ giả tạo.
Peter thưa: “Con không hiểu gì hết.”
“Ba má vừa du lịch châu Phi trên phim cuộn; có bắt gặp cả Tom Swift và sư tử điện tử nữa,” người cha kể lại.
“Làm gì có châu Phi nào trong nhà thiếu nhi, hả ba?” Peter nói đơn giản.
“Ồ, vậy thì coi ngay đi.”
Nhanh chân, Wendy chạy.
“Wendy, quay lại đây!” George gọi với theo, nhưng bóng cô bé đã biến mất. Peter nói: “Ba yên tâm. Wendy sẽ xem và kể lại.”
“Con bé không cần kể lại với ba. Ba xem rồi.”
Nhưng Wendy đã trở lại. “Làm gì có châu Phi,” cô bé vừa nói vừa thở.
George cao giọng: “Chúng ta sẽ cùng xem,” rồi cả ba bước xuống hành lang, mở cửa nhà thiếu nhi.
Hiện ra trước mắt họ là khu rừng xanh tốt, dòng sông đáng yêu, ngọn núi tím thẫm; thảo nguyên châu Phi chả biết đã biến đi đâu.
George nhìn vào khung cảnh đã thay đổi. “Thôi, đi ngủ!” Anh nói với bọn trẻ. Chúng há hốc mồm.
“Các con nghe ba nói chứ,” anh lớn giọng.
Họ cùng ra khỏi nơi đó, tiến đến một căn buồng trống không; tại đây, một cơn gió cuốn hút họ như thể những chiếc lá nâu bay vào chiếc ống thông hơi khổng lồ để nhẹ nhàng rơi vào buồng ngủ êm đềm của họ.
George chậm rãi tản bộ qua bãi hát rong; đoạn anh nhặt một thứ gì đó nằm trong chuồng gần nơi bầy sư tử ở. Anh lững thững quay về chỗ bà xã.
“Đó là gì vậy anh?” Cô ấy hỏi.
“Một chiếc ví cũ của anh.”
Anh đưa cô ấy xem. Có mùi cỏ cháy lẫn mùi sư tử. Có những giọt nước bọt trên đó, chiếc ví đã bị nhai nát, và có những vết máu ở cả hai bên. Anh đóng cửa nhà thiếu nhi, khóa chặt lại.
*
Đến nửa đêm anh vẫn thức và biết vợ chưa chợp mắt. “Anh có nghĩ Wendy đã thay đổi nó không?” cuối cùng, vợ anh nói trong phòng tối.
“Tất nhiên rồi.”
“Biến nó từ một thảo nguyên hoang dã thành một khu rừng tươi tốt, rồi đặt ca sĩ nhí Rima vào đó thay cho bầy sư tử?”, vợ anh lại hỏi.
“Đúng.”
“Tại sao vậy?”
“Anh không biết nữa,” anh đáp.
“Làm thế nào ví của anh lại bay đến đó?”
“Anh chả biết gì cả,” giọng anh trầm xuống, “chỉ có điều anh bắt đầu thấy ân hận vì chúng ta đã sắm nhà thiếu nhi cho chúng…”.
“Người ta bảo một căn phòng như thế sẽ giúp chúng giảm thiểu các chứng loạn thần một cách có lợi cho sức khỏe, anh ạ,” vợ anh cất giọng như một lời quảng cáo.
“Anh bắt đầu nghĩ lại và thấy thật đáng tiếc.”
“Vợ chồng mình đã dành cho bọn trẻ mọi thứ chúng muốn. Và bây giờ chúng trở nên bất tuân?”, bà xã anh hỏi.
“Ai đó nói rằng, “Trẻ em là những tấm thảm, lắm khi nên giẫm lên chúng”. Chúng ta chưa bao giờ bạt tai chúng. Chúng về nhà hoặc đi đâu tùy ý; chúng đối xử với chúng ta như thể chúng ta là kẻ để sai bảo. Chúng hư hỏng; chúng ta cũng hư hỏng luôn,” anh thực thà tâm sự.
Một lúc sau, họ nghe thấy tiếng hét. Hai tiếng hét. Hai người hét lên ở trên lầu. Và sau đó là tiếng gầm hung dữ của bầy sư tử.
“Có phải cả hai đứa không?”
“Dạ, bực thật”, vợ anh đáp.
Và mặc dù giường của họ rất êm ái, nhưng cả hai không thể nào ngủ thêm một giờ nào nữa cả.
*
“Ba ơi!”, Peter gọi.
“Gì con?”
Peter nhìn vào đôi giày của mình. Cậu không nhìn cha mình, cũng không nhìn mẹ nữa. “Ba dự định đóng cửa nhà thiếu nhi; như vậy tốt sao?”
“Tất cả còn tùy…”.
“Tùy gì, ba nói đi?” Peter cáu kỉnh.
“Tùy con và em con. Nếu con biết xen giữa châu Phi một chút sự đa dạng - nào Thụy Điển, nào Đan Mạch…”.
“Con tưởng tụi con được tự do vui chơi theo sở thích chứ!”
“Cần có một giới hạn hợp lí, con ạ.”
“Có chuyện gì rắc rối với châu Phi, ba nói đi!” “Ồ, vậy bây giờ con thừa nhận con đã gợi nhớ đến châu Phi, đúng không?”
Peter lạnh lùng: “Con không muốn nhà thiếu nhi bị khóa lại. Không bao giờ!”
“Thực tế, ba má đang nghĩ đến việc thôi vận hành toàn bộ ngôi nhà trong khoảng một tháng. Sống theo cách thức mỗi-người-vì-mọi-người và bất cần tiện nghi, cho thoải mái.”
“Thế là con phải tự buộc dây giày thay vì để cái máy nho nhỏ kia làm việc đó? Và con phải tự đánh răng, tự chải đầu, tự tắm rửa?”
“Đúng! Sẽ rất thú vị nếu có sự thay đổi như thế!”
“Không, sẽ rất kinh khủng!” Peter la lên.
*
“David, nhờ anh xem lại nhà thiếu nhi. Anh đã thấy nó cách đây một năm; lúc đó anh có nhận thấy điều gì khác thường không?”
“Không, không có gì.”
Cả hai cùng bước xuống. “Tôi đã khóa nhà thiếu nhi,” người cha giải thích, “và bọn trẻ đãđột nhập trong đêm. Tôi đã cố tình để chúng ở lại đó nhằm tạo thành các mô hình cho anh xem”.
Có tiếng la hét khủng khiếp từ nhà thiếu nhi. George nói: “Đó đó. Hãy xem những gì anh tạo ra từ hệ thống đó.”
Họ bước vào gặp bọn trẻ, không nói năng gì. Tiếng hét nhỏ dần. Bầy sư tử đang kiếm ăn.
George ra lệnh: “Hãy ra ngoài một chút, các con ạ… Giữ nguyên các bức tường y như thế.”
Khi lũ trẻ đi hết, hai người đàn ông đứng quan sát bầy sư tử đang tụ tập lại ở một khoảng cách khá xa, ăn uống khoái khẩu bất cứ con thú nào chúng bắt được. Máu me đầm đìa.
George lên tiếng: “Tôi ước mình biết rõ nó thực chất là gì.”
David cười khan. “Khó lắm đây.” Ông quay vào tìm hiểu kĩ cả bốn bức tường. “Chuyện này xảy ra lâu chưa?”
“Hơn một tháng.”
“Thật tồi tệ! Lời khuyên của tôi là phá bỏ toàn bộ căn phòng chết tiệt này đi; còn con anh thì mang đến cho tôi điều trị mỗi ngày trong năm tới.”
“Anh không đoán ra điều này trước đây sao?”
“Tôi chỉ cảm nhận được rằng anh làm hư con mình hơn hầu hết những người khác. Và bây giờ anh đang làm chúng tệ hại hơn nữa.”
“Nhưng bọn trẻ có bị sốc quá không, đóng cửa đột ngột có ích gì?” Người cha lo lắng hỏi.
“Tôi không muốn chúng lún sâu hơn vào những rắc rối này.”
Bầy sư tử đã hoàn tất bữa tiệc máu. Chuyên gia tâm lí nói: “Bây giờ tôi cảm thấy như bị tra tấn. Hãy ra khỏi đây, anh George. Căng não quá!”
Họ ra cửa lớn. David nói: “Hôm nay, chứng hoang tưởng dày đặc quanh đây. Tạm biệt anh nhé.” Ông ấy cúi xuống nhặt một chiếc khăn quàng cổ đẫm máu. “Cái này của anh à?”
“Không.” George mặt cứng đờ. “Của Lydiađấy.”
Họ cùng nhau đi đến hộp cầu chì và rút công tắc, triệt tiêu nhà thiếu nhi.
*
Hai đứa trẻ lên cơn kích động. Chúng gào lên, khóc thét, chửi thề và nhảy vào các trang thiết bị quanh phòng. “Ba má không thể làm thế với nhà thiếu nhi, không, không, không!”
“Anh George,” Lydia sốt ruột nói, “anh tạm thời bật cầu giao lên trong giây lát. Đừng cắt điện đột ngột như thế.”
“Không. Anh nhất quyết rồi.”
“Anh không thể tàn nhẫn như vậy...”.
“Lydia ạ, nó đã tắt, và sẽ tiếp tục y như vậy. Giờ đây, chúng ta cần hơi thở trong lành và lương thiện, em ạ.”
Đoạn, anh sải bước mạnh mẽ về phía ngôi nhà, tắt đồng hồ âm thanh, tắt bếp lò, tắt máy sưởi, tắt máy đánh giày, tắt máy buộc dây giày, tắt máy cực khoái, tắt máy ngoáy tăm bông, tắt máy mát xa toàn thân và mọi máy móc ấn nút khác.
“Đừng để họ làm điều đó! Đừng! Đừng!” Peter ngẩng đầu lên than khóc với cái pờ-la-phông, như thể cậu đang rên rỉ với ngôi nhà, với nhà thiếu nhi. “Đừng để cha tôi giết chết mọi thứ. Đừng! Đừng!”
Cậu quay sang cha mình, “Ôi, con ghét ba vô cùng! Con ghét ba! Con ghét ba!”
“Những lời xúc phạm đó sẽ không dẫn con tới đâu cả. Con sai rồi!”
“Con ước gì ba hãy chết nhanh đi! Chết ngay đi!”
“Chúng ta đã có chúng trong một thời gian dài - một thời gian dài vô nghĩa. Bây giờ chúng ta sẽ thực sự bắt đầu cuộc sống. Thay vì được đối đãi hoàn toàn bằng máy móc, giờ đây chúng ta sẽ sống.”
Wendy vẫn khóc thút thít; Peter cũng thảm não như thế. “Chỉ bật một phút thôi, một phút thôi cũng được,” chúng than vãn.
“Ôi, anh George ơi,” người vợ mếu máo, “em không chịu nổi.”
“Được rồi, nếu chúng chịu im lặng. Anh sẽ bật một phút, rồi sau đó tắt vĩnh viễn.”
*
“Ủa? Em để chúng lại trong nhà thiếu nhi à?” Người chồng hỏi.
“Em về phòng thay đồ.”
“Anh nghĩ, tốt hơn chúng ta nên xuống cầu thang trước khi lũ trẻ mải mê với bầy ác thú chết tiệt một lần nữa.”
Ngay sau đó, họ nghe thấy hai đứa gọi, “Ba ơi, má ơi, nhanh lên, nhanh lên nào!”
Họ đi xuống cầu thang theo ống thông hơi tự động và chạy xuống đại sảnh. Trong tầm mắt mình, họ chả thấy hai đứa trẻ đâu cả.
“Wendy? Peter!”
Họ chạy bổ vào nhà thiếu nhi. Thảo nguyên châu Phi trống trơn, chả có gì ngoại trừ bầy sư tử hung dữ đang chờ họ. George và vợ anh quay ngoắt lại, chạy ra cửa.
“Mở cửa ra!” George la lên, tay lay mạnh cái nắm cửa. “Tại sao chúng khóa cửa ngoài! Peter!” Anh đập cửa rầm rầm. “Mở cửa ra!”
Anh nghe thấy tiếng Peter sau cánh cửa. “Đừng để ba má tắt nguồn điện cả nhà thiếu nhi lẫn ngôi nhà,” Peter nói lớn.
Ông bà George Hadley đập cửa: “Đừng chơi trò nực cười như thế, các con ạ. Đến giờ đi rồi. Ông David sẽ tới đây trong một phút nữa.”
*
“Chà, tôi đây,” David đứng nói ở ngưỡng cửa nhà thiếu nhi, “Chào hai cháu.” Ông nhìn chằm chằm lũ nhóc đang ngồi ở giữa khu đất trống, lúi húi ăn một bữa picnic. Cách chúng một quãng là hố nước và một thảo nguyên vàng rực; bên trên là mặt trời hừng hực. Ông bắt đầu toát mồ hôi. “Ba má các cháu đâu?”
Cả hai cùng ngước lên, cười hả hê: “Ồ, họ sẽ có mặt ở đây thôi.”
“Tốt đấy, chúng ta khởi hành thôi.” Nhà tâm lí học nhìn thấy ở xa xa, lũ sư tử đang lao vào nhau cào cấu rồi lặng lẽ đi kiếm ăn dưới những tán cây râm mát. Ông che tay, nheo mắt nhăn mày nhìn bầy sư tử. Bây giờ lũ sư tử đã ăn xong. Chúng di chuyển đến hố nước. Một bóng đen lướt qua khuôn mặt nóng bỏng của ông. Nhiều bóng đen chập chờn. Bầy kền kền đang lao xuống bầu trời rực rỡ.
“Dạ thưa, ông vui lòng uống trà chứ ạ?” Wendy nhỏ nhẹ hỏi nhà tâm lí học.
Trần Như Luận lược dịch
(TCSH48SDB/03-2023)
MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.
DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.
MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.
HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.
GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.
VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.
NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.
JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.
KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.
KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.
LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.
YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.
KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.
KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.