Thanh Tịnh - Một chân dung đa hệ

16:27 31/08/2021

PHONG LÊ    

Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.

Ảnh: internet

Lọt vào danh sách 45 nhà thơ được chọn, và thuộc trong số người được chọn 2 bài, có thể xếp Thanh Tịnh vào dàn đồng ca Thơ mới trước 1945 cùng vị trí với Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, Yến Lan, Huy Thông... Nhưng ngoài Thơ mới mà 2 bài được Hoài Thanh chọn xứng đáng với phẩm chất mới trong các đặc trưng tiêu biểu của nó, Thanh Tịnh còn làm nhiều loại thơ khác, cố nhiên không phải là thơ cũ. Chẳng hạn bài Trường học làng tôi, tác giả viết khi 19 tuổi, khoảng năm 1930; một bài thơ kể chuyện, với nhiều chất văn xuôi, thô mộc, giản dị mà gợi nhiều xúc cảm và có ít nhiều in dấu tính cách của nhà thơ:

Trường học làng tôi ở cạnh đình
Một trường ba lớp vẻ xinh xinh
Trước trường có mấy cây đào lớn
Thường quyến lòng tôi những cảm tình

 
Trường tôi mặt trước ngó ra sông
Còn mặt đằng sau ngó quãng đồng
Phía ấy thầy tôi thường hỏi hướng
Tôi vòng tay đáp: dạ, phương Đông

 
Thầy tôi tầm thước mảnh và cao
Hai mắt long lanh má nhuốm đào
Mái tóc hơi quăn, cằm hơi nhọn
Nụ cười thường lẫn tiếng khao khao

 
Sau ba năm học ở trường làng
Tôi thấy trong làng đã mở mang
Tôi biết con bò loài nhai lại
Và tin trời đất rộng thênh thang

 
Năm nay thôi học ở trường quê
Nhớ lại lòng tôi cảm nặng nề
Những buổi thu sương buồn ảm đạm
Trống trường vang dội phía sau đê.


Nếu đây là bài thơ đậm chất văn xuôi, thì cũng với chất liệu ấy, bài văn Tôi đi học, trong tập truyện Quê mẹ, nói đến tâm trạng của cậu bé lần đầu tiên được mẹ dắt tay đưa đến trường lại rất giàu chất thơ, mà thế hệ học sinh trước sau lứa tuổi tôi không ai không thuộc lòng đoạn văn mở đầu rất êm ái và giàu nhạc điệu của nó: “Hằng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm miên man của buổi tựu trường.

Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng...”.

Nếu Thơ mới là thơ điệu nói chứ không phải điệu ngâm thì điều có thể khẳng định: điệu nói luôn luôn là ưu thế của Thanh Tịnh, để cho ông có thể tiếp tục mà nâng lên thành thể thơ độc tấu, như là môn sở trường và cũng là duy nhất của riêng ông, trong không gian văn học gắn với yêu cầu đại chúng hóa sau 1945. Dẫu có một vài đồng nghiệp như Đoàn Phú Tứ chê bai: “Không ngờ là một nhà thơ trữ tình như Thanh Tịnh lại đi làm trò hề, trò xẩm”, nhưng ông vẫn tin ở những tìm tòi và con đường sáng tạo của mình, bởi hiệu quả trông thấy và tác dụng rất lớn của nó đối với công chúng số lớn còn thất học, và đối với sự nghiệp phục vụ kháng chiến vào thời kỳ đầu phòng ngự, cầm cự còn rất lắm khó khăn. Từ là tác giả của Hận chiến trường đến với người duy nhất lĩnh sứ mệnh độc tấu trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Thanh Tịnh gần như không phải trải một “lột xác”, một “nhận đường” vất vả nào trong cuộc chuyển mình của dân tộc và văn nghệ cách mạng, như Chế Lan Viên, Huy Cận, như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao...

Nhìn vào tất cả những gì Thanh Tịnh nói và viết sau 1945, gồm độc tấu, ca dao, thơ ngắn, thơ dài thì thấy mọi việc diễn ra đều nhẹ nhàng, suôn sẻ; nhưng nghe ông kể thì mới thấy đó là một quá trình tập dượt vất vả. Bởi ông là người xứ Huế, người của đế kinh nên ông phải kiệm lời, phải tập nói ít (để tránh phạm thượng và phạm húy), có lúc gần như là tu sĩ; thế mà rồi có lúc ông phải đọc to lên, phải nói cho nhiều người nghe; rồi vừa nói vừa diễn các câu chuyện, các tích truyện diễn ra trong sự sống kháng chiến mà ông được nghe, được thấy, bắt đầu là bài Hiệu triệu Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch ngày 19/12/1946, tiếp đến là bài Bắn cả hai - đầu 1947, một câu chuyện cảm động về sự hy sinh anh dũng của một dân quân. Từ đó, là các bài Anh hùng liên lạc, Chiến thắng sông Lô (đọc ngay trên bến Đoan Hùng còn vương mùi khói súng), Lão dân quân Đông Bắc... Từ tấu sang kịch, với diễn xuất trong một hoặc nhiều vai chỉ là một bước ngắn, để nhà thơ trở thành nhân vật quan trọng trong Đoàn Sân khấu Việt Nam, sau đổi là Đoàn kịch Chiến thắng, qua các vở diễn như Đề Thám xuất quân, Cụ đạo và sư ông, Tiếng gọi lên đường...; trong đó, đặc biệt gây ấn tượng là vở Đọc trang lịch sử mà ông là tác giả, chỉ gồm 2 nhân vật: nhân vật Người đọc sử, đứng khuất sau ánh đèn và nhân vật Người cầm đèn phải diễn xuất theo nội dung được đọc; một vở diễn vừa nghiêm trang vừa linh hoạt, từng được Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh và khách Pháp xem.

Vậy là từ tập viết sang tập nói, từ nói một mình và nói to lên sang diễn một mình hoặc với nhiều người; từ Thơ mới qua thơ kể chuyện, đến thơ độc tấu, chuyển sang sân khấu, Thanh Tịnh đã là người đầu tiên và duy nhất tạo nên mối lương duyên cho nhiều hệ hình sáng tạo, vào một thời sinh hoạt văn nghệ của nhân dân đang cần đến một loại hình như thế.

Sản phẩm cuối cùng trong dây chuyền sáng tạo này có lẽ là trường ca (hoặc truyện thơ) Đi từ giữa một mùa sen Thanh Tịnh viết năm 1980, kể chuyện thời thơ ấu của Bác Hồ, cùng với song thân và gia đình, trên hai địa bàn: quê hương Nghệ An và Huế, trong 8 đoạn thơ gồm 1816 câu thơ, với mỗi đoạn một điệp khúc, theo lối kể truyền thống:

Đó là cậu Nguyễn Sinh Cung
Đoạn đầu thiên sử anh hùng vĩ nhân


Qua các đoạn hai, đoạn ba, đoạn bốn, đoạn năm, cho đến đoạn sáu:

Đẹp thay anh Nguyễn Tất Thành
Sử ca đoạn sáu lừng danh anh hùng


Tiếp đến đoạn bảy, đoạn tám là kết thúc...

Một trường ca thuộc loại dài - dài hơn nửa Truyện Kiều, để có thể vừa kể, vừa diễn; đáng tiếc là còn ít được bạn đọc nhắc đến, có lẽ vì vào cái thời nó ra đời, văn hóa đọc đã triệt để thay cho văn nói, dẫu là ngắn hoặc dài, ngắn như Trường học làng tôi, dài như Đi từ giữa một mùa sen; và thơ kể chuyện theo lối truyện thơ Nôm khuyết danh đã lùi quá sâu vào lịch sử.

*
Trở lại với sự nghiệp viết của Thanh Tịnh trước 1945, ngoài thơ và Thơ mới, còn là tác giả của các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Ngậm ngải tìm trầm (1943) và truyện dài Xuân và Sinh (1944). Hai tập truyện ngắn gợi rất nhiều ấn tượng, góp phần làm nên một giòng văn xuôi trữ tình đặc sắc gồm nhiều tên tuổi, với vai trò trụ cột là Thạch Lam. Những truyện của Thanh Tịnh để lại trong lòng người đọc nhiều bùi ngùi, và lưu luyến về những con người, những cảnh đời nơi một làng quê của miền Trung có tên là Mỹ Lý. Chỉ một tên làng mà chứa đựng biết bao là thân phận. Những thống khổ tận cùng của nhân gian như Am cu ly xe, Ngậm ngải tìm trầm. Những buồn thương trước những mơ ước cực kỳ đơn sơ, bé nhỏ của những phận nghèo như Con so về nhà mẹ, Quê mẹ (Chiều chiều ra đứng cửa sau. Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu). Những mối tình không thành để lại biết bao xót xa cho phận người trong Tình thư, Bên con đường sắt. Những gặp gỡ chỉ mới nhen lên chứ không bao giờ thắp sáng được hạnh phúc cho con người như trong Quê bạn (Rồi mùa toóc rạ rơm khô. Bạn về quê bạn biết mô mà tìm), trong Tình trong câu hát (Thuyền về Đại Lược. Duyên ngược Kim Long. Đến đây là chỗ rẽ của lòng. Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?). Một thế giới của những phôi pha, lụi tàn và héo hắt như trong Chú tôi, Con ông Hoàng... Chỉ một tên làng Mỹ Lý mà đủ để đại diện cho cả một dải đất hẹp miền Trung, không riêng xứ Huế, có sông nước, có bến đò, có chợ búa, và một nhà ga chơ vơ giữa cánh đồng... để cùng với làng Đông Xá và làng Vũ Đại của Ngô Tất Tố, Nam Cao trên đất Bắc mà làm nên một biểu trưng, một cái tên chung cho quê Việt, cho hồn Việt.

Giòng văn trữ tình này trước 1945, có sự góp mặt của nhiều tên tuổi; và mỗi người chỉ cần một hoặc hai tên truyện là đủ ôm gọn đặc trưng riêng của nó. Với Thạch Lam, đó là Gió đầu mùa Nắng trong vườn. Với Ngọc Giao, đó là Phấn hương Cô gái làng Sơn Hạ. Với Xuân Diệu, đó là Phấn thông vàng. Với Hồ Dzếnh, đó là Chân trời cũ. Với Đỗ Tốn, đó là Hoa vông vang. Với Thanh Châu, đó là Hoa ti gôn. Còn với Thanh Tịnh, đó là Ngậm ngải tìm trầm Quê mẹ...

Những gần gũi về tư tưởng và phong cách ngôn ngữ đã gắn bó họ trong một khuynh hướng nghệ thuật. Và hiện tượng có nhiều phong cách viết cùng tồn tại, cùng bổ sung cho nhau chính là kết quả của tiến trình hiện đại hóa đã có thể diễn ra sôi nổi và rõ nét trong thời kỳ 1930 - 1945, còn trước đó thì chưa.

Bên cạnh sự gần gũi của các phong cách viết thì sự gần gũi về thế hệ cũng là điều đáng lưu ý. Năm 1910 là năm sinh của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Năm 1911, cùng năm sinh với Thanh Tịnh là Ngọc Giao. Sau ông, năm 1912 là năm sinh của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng và Thanh Châu... Tất cả, đều là những tên tuổi có vị trí quan trọng trong đàn văn 1930 - 1945; và đều đạt đến độ chín của sáng tạo ở tuổi 20 đến 30.

Cuối cùng, một phương diện của tài năng và sự nghiệp Thanh Tịnh, còn là nghề báo. Và xem ra đây là điều rất cần được ghi nhớ, bởi đó vừa là sự khởi nghiệp, vừa là sự kết thúc sự nghiệp của Thanh Tịnh trong ngót 60 năm hành trình nghề nghiệp của mình. Từ thập niên đầu những năm 30, Thanh Tịnh đã là phóng viên hoặc ký giả của nhiều tờ báo quan trọng trên cả ba miền Bắc Trung Nam như Tiếng dân, Tràng an, Đất Việt, Sông Hương, Phụ nữ thời đàm, Hà Nội báo, Tinh hoa, Phong hóa, Ngày nay... Với kỹ năng nghề nghiệp cao, Thanh Tịnh đã có thể nắm bắt những vấn đề quan trọng của đời sống, và tiếp xúc với những người rất lý thú cho nghề báo như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Quỳnh... Việc Thanh Tịnh có thể tiếp cận với một người khó gặp như Phạm Quỳnh, sau ba lần xin gặp mà không được, bằng cái mẹo chuẩn bị tung ra công luận cái tin: “Cứ kể ba lần hẹn gặp mà không được rồi trình cho cụ Thượng biết”, buộc Phạm Quỳnh phải cho gặp ngay, khiến ta có dịp suy nghĩ về quyền lực của nhà báo; và so sánh khó dễ, hơn thua của nghiệp làm báo xưa và nay.

Trong nửa sau của đời mình, ở tuổi 50, Thanh Tịnh đã rất chuyên tâm cho việc phụ trách tờ Tạp chí Văn nghệ quân đội, trong cương vị Phó Chủ nhiệm, rồi Chủ nhiệm, để làm nên một văn hiệu lớn cho địa chỉ 4 Lý Nam Đế, bên cạnh các địa chỉ 51 Trần Hưng Đạo (Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam), 65 Nguyễn Du (Hội Nhà văn Việt Nam) và 20 Lý Thái Tổ (Viện Văn học) - những địa chỉ văn hóa - văn nghệ quen thuộc với công chúng trong cả một thời dài cho đến bây giờ. Hãy để cho những nhà văn mặc áo lính thuộc Thế hệ Vàng của văn chương dân tộc như Vũ Cao, Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hồ Phương... - thế hệ đến và đi từ 4 Lý Nam Đế, nói về Thanh Tịnh, chúng ta mới có thể hiểu hết về ông - người thủ trưởng, người thầy, người anh, người bạn thân thiết và đôn hậu, thủy chung không chỉ của một thời, mà là cả một đời nghề nghiệp của họ.

Tây Hồ, tháng 2/2021
P.L  
(TCSH390/08-2021)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.