Sau hơn 140 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã để lại cả kho tàng cổ vật, làm nên phần hồn của di sản văn hóa Huế ngày nay.
Cửu đỉnh - báu vật triều Nguyễn được đúc vào năm 1835, hiện trưng bày tại Đại nội Huế
Từ năm 1636-1945, Huế trở thành thủ phủ của Đàng Trong, rồi là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất dưới các triều đại của chúa Nguyễn, Tây Sơn và vua Nguyễn. Vô số nhân tài, vật lực và báu vật quý của cả nước hội tụ về đây.
Huế giàu cổ vật
Ngay từ thế kỷ XVIII, giới quý tộc Huế đã có thú sưu tầm đồ cổ và mua sắm các vật dụng quý giá. Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, học giả Lê Quý Đôn đã ghi chép về đời sống xa hoa và sự giàu có của quý tộc Huế như sau: “Thuận Hóa được bình yên đã lâu, công tư đều dồi dào, mặc dùng tươi đẹp, lại trải qua thời Nguyễn Phúc Khoát hào phóng bắt chước nhau, làm thành thói quen, quan viên lớn nhỏ không ai không dùng nhà cửa chạm gọt, tường vách gạch đá, the màn trướng đoạn, đồ đạc đồng thau, bàn ghế gỗ đàn gỗ trắc, chén mâm đồ sứ đồ hoa, yên cương vàng bạc, y phục gấm vóc, chiếu đệm mây hoa, đua nhau khoe đẹp”.
Theo TS Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, khi nhà Nguyễn lên ngôi vào năm 1802, Huế trở thành kinh đô của cả nước, tập trung các nguồn của cải, báu vật quốc gia. Ngoài các loại vàng bạc ngọc ngà, trong kho tàng hoàng gia còn rất nhiều thứ quý giá thuộc về giới quý tộc, quan lại, thương nhân... sống tại kinh đô.
Đầu thế kỷ XX, trước tình trạng nhiều tác phẩm nghệ thuật bị săn đuổi, chiếm hữu thì việc nghiên cứu cổ vật mới được chú ý. Khởi đầu là các nhà nghiên cứu thuộc Hội Đô Thành Hiếu Cổ đặt trụ sở ở điện Long An (tức Tân Thơ Viện của Trường Quốc Tử Giám - Huế). Nhờ nỗ lực của họ, sau 10 năm hoạt động, bộ sưu tập cổ vật bao gồm cả cổ vật cung đình đã có xấp xỉ số lượng 10.000.
Kiểm kê hằng năm
Ông Phan Thuận An, người hầu như gắn bó cả đời mình để nghiên cứu những điều bí ẩn chốn cung đình triều Nguyễn, khẳng định cổ vật là di sản phản ánh thẩm mỹ, sự tài hoa của người thợ và sự suy thịnh của các triều đại.
Trong hơn 140 năm tồn tại, từ năm 1802-1945, các vị vua triều Nguyễn phần lớn có học thức, trình độ, đặc biệt là 4 vị vua đầu tiên là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Từ năm 1802-1883 là thời kỳ an bình thịnh trị nhất nên cổ vật phát triển nhiều nhất. Nghiên cứu của ông Phan Thuận An cho thấy thời Minh Mạng đã cho xây dựng rất nhiều công trình đền đài miếu mạo cũng như cung cấm và tiến hành nhiều nghi lễ như tế đàn Nam Giao, Xã Tắc, lễ hưng quốc khánh miện (quốc khánh triều Nguyễn)... Ở những sự kiện trọng đại này, các quan đứng đầu mỗi địa phương thường khuyến khích, ra lệnh cho nghệ nhân làm các sản phẩm tinh xảo nhất, đẹp nhất, giá trị nhất để cung tiến.
Tại lễ tứ tuần đa của vua Khải Định (lễ mừng vua tròn 40 tuổi) vào năm 1924, cả 3 căn nhà lớn do triều đình dựng lên trước quảng trường Ngọ Môn thuộc Đại nội Huế đều chật kín các sản vật cung tiến.
Một loại ấn bằng vàng được đúc vào thời chúa Nguyễn năm 1709
Sự giàu có về cổ vật triều Nguyễn còn do các đội phụ trách trong cung đình tự làm ra để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của triều đình. Mỗi đời vua có khoảng 60-70 nhóm nghệ nhân mà nhà Nguyễn đặt tên là tượng cục, chuyên phụ trách sản xuất các đồ dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt của triều đình. Trong đó, mỗi tượng cục được giao nhiệm vụ khác nhau, có nhóm phụ trách chế tác các loại sản phẩm từ vàng; nhóm làm sản phẩm áo quần, xe cộ đi lại cho vua chúa, hoàng thân.
Khu hoàng cung là nơi xưa kia vua chúa, hoàng thân ăn ở và thờ tự của nhà Nguyễn. Những nơi thờ tự trong hoàng cung như Thái miếu, điện Phụng Tiên, Triệu miếu... là các kho chứa báu vật triều Nguyễn. “Còn có biết bao nhiêu cung điện cực kỳ hoa lệ, được thờ tự rất uy nghiêm. Các bộ phận tượng cục lo sản xuất các dụng cụ ở đó thì báu vật triều Nguyễn sản sinh ra nhiều biết bao” - ông An khẳng định.
Với vô vàn báu vật, các dụng cụ sinh hoạt hằng ngày của vua, hoàng thân quốc thích nhưng triều Nguyễn vẫn tổ chức bảo quản, giữ gìn khá tốt. Nhà nghiên cứu Phan Thuận An cho biết bắt đầu từ thời vua Minh Mạng, triều Nguyễn đã tổ chức nhiều bộ phận giữ gìn, ghi chép cẩn thận tên từng báu vật. Hằng năm, vào thời điểm trước khi nghỉ Tết Nguyên đán, triều đình lại tổ chức lễ phất thức với ý nghĩa lau chùi các báu vật trong cung.
Tại lễ này, một hội đồng được thành lập ra có sự tham gia của các đại thần và do một quan đại thần trong hoàng tộc thuộc Tôn nhân phủ đứng đầu. Tất cả đồ vàng, ngọc, châu báu, bao nhiêu tủ, kệ bàn ghế của hoàng gia đều được đưa ra điện Cần Chính để các cụ kiểm kê.
“Lễ này với ý nghĩa là lau chùi bụi bẩn nhưng thực tế để kiểm kê tài sản. Tất cả rương hòm đều mở ra xem thứ nào mất, thứ nào còn rồi ghi cẩn thận vào biên bản và sau đó đóng dấu niêm phong cẩn thận. Biên bản cũng ghi tên những người tham dự, vật đang còn là gì, thứ đã mất, nguyên nhân...” - ông An nói.
Mua lại cổ vật bị cướp Tại khu vực Ngọ Môn trước Đại nội Huế hiện nay, mỗi lần du khách tham quan thường ghé qua 9 khẩu đại bác (Cửu Vị Thần Công) được đúc bằng đồng vào thời Gia Long. Đây được xem là biểu tượng bảo vệ kinh thành Huế nhưng bị thực dân Pháp chiếm đoạt khi vào đô hộ. Sau khi lên ngai vàng vào năm 1885, vua Đồng Khánh cũng nỗ lực đòi lại một số báu vật bị quân Pháp cướp mất trước đó. Triều Nguyễn đã phải tốn không ít sức lực và tiền bạc để lấy lại những khẩu đại bác này cũng như phần lớn ấn tín quan trọng nhất. Thời vua Khải Định và Bảo Đại, triều Nguyễn còn có thêm khá nhiều tặng vật ngoại giao, chủ yếu là của chính phủ Pháp. Trong khoảng từ thời Đồng Khánh đến năm 1945, triều Nguyễn đã cho đúc thêm nhiều ấn tín bằng vàng, bạc. |
Kỳ tới: Cuộc cướp cạn ngày thất thủ
Theo Quang Nhật (nld.com.vn)
Đất nước đang trên hành trình 30 năm Công cuộc Đổi mới, kể từ năm 1986. Nền văn học nghệ thuật của nước nhà cũng vậy, đang hướng đến việc đánh giá chặng đường 30 năm đổi mới. Văn nghệ xứ Huế trong 30 năm qua cũng đã có những thành tựu mới, cũng có những hạn chế cần được gợi mở để cho những trang viết về sau vượt qua, sung mãn hơn, nghệ thuật hơn, đầy trách nhiệm nhân văn hơn. Kể từ số báo này, Sông Hương sẽ khởi đăng những bài viết nghiên cứu liên quan đến chủ đề này. Việc nhìn nhận lại văn nghệ Thừa Thiên Huế sẽ được giới thiệu đầy đủ hơn trong các số báo tiếp theo, sau khi Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Tạp chí Sông Hương tổ chức hội thảo về Văn học Thừa Thiên Huế 30 năm đổi mới 1986 - 2016 vào khoảng tháng 6 tới đây.
“Ngài” rùa đá được xem như một trong hai linh vật để trấn yểm vùng đất Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế), trên đầu “ngài” còn có một chữ Vương.
Huế có những sáng mờ sương, sương giăng kín những tuyến phố, bầu trời như sà xuống tận đầu người, xứ Huế vốn mộng mơ càng thêm huyền ảo.
Lối kiến trúc độc đáo thuộc hệ phái thevarada (Nam tông) tạo cho chùa Thiền Lâm một nét đẹp khác biệt so với các cổ tự đất cố đô.
Cố đô Huế bây giờ không còn trầm mặc, phong cảnh về đêm thật quyến rũ bởi việc chiếu sáng nghệ thuật cầu Trường Tiền.
Sáng 10-3, Sở VHTT&DL tỉnh Thừa Thiên- Huế phối hợp với UBND huyện A Lưới đã tổ chức lễ hội Ariêu Car_một trong những lễ hội văn hóa truyền thống lớn với sự tham gia đông đảo cộng đồng người dân tộc thiểu số Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pa Hy đang sinh sống ở địa bàn vùng cao huyện A Lưới .
Nhà vườn An Hiên, phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn, Xuân Viên Tiểu Cung... là những nhà vườn đẹp bậc nhất xứ Huế. Hệ thống kiến trúc dân gian này là một điểm nhấn trong khám phá nét đẹp văn hóa Cố đô.
Lễ hội A riêu Car là dịp để các dân tộc hội tụ, thể hiện tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống.
Là món ăn có cái tên khiến nhiều người phải ngẩn ra vì nghe quá lạ, canh chột nưa chinh phục thực khách bởi hương vị đậm chất quê và cái tình của người dân Huế.
SHO - Sáng ngày 21/2 (14 Tháng Giêng năm Bính Thân), Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chuyến đi Viếng mộ thi nhân tại các nghĩa trang trên địa bàn thành phố Huế tưởng nhớ các văn nghệ sĩ đã khuất . Đây là năm thứ tám văn nghệ sĩ Cố đô Huế tổ chức đi viếng mộ thi nhân vào dịp Tết Nguyên tiêu.
Không biết có tự bao giờ mà hoa tre là lễ vật không thể thiếu trong lễ "cúng bổn mạng" đầu năm của mỗi gia đình xứ Huế. Nội tôi kể rằng: Thuở xưa khi chưa có "ông tổ" khai sinh ra loại hoa tre thì người ta "cúng bổn mạng" bằng hoa thọ. Hoa thọ mang ý nghĩa trường tồn, cầu mong được sống lâu để sum vầy cùng con cháu.
Là kinh đô xưa cổ còn được lưu giữ gần như toàn vẹn nhất cho đến bây giờ, Tết ở Huế tượng trưng cho sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại.
Cặp rắn này chỉ xuất hiện tại chùa vào các ngày sóc vọng (các ngày 1, 15, 30 hàng tháng) và trú lại qua đêm trong hang cây da cổ thụ rồi lặng lẽ bỏ đi. Thấy chuyện lạ, một số người cho rằng đây là đôi rắn “có chân tu” nên mới về chùa để “nghe giảng giải kinh Phật”...
Bấy lâu nay, nhiều người dân, du khách vẫn thường nhắc đến con rùa khổng lồ thi thoảng xuất hiện trên dòng sông Hương, đoạn trước mặt điện Hòn Chén (thuộc thôn Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên – Huế). Người dân địa phương gọi đó là “rùa thần”.
Có thể nói, trong số hàng trăm sản phẩm bằng tre của các nghệ nhân làng Bao La (xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) tạo nên, chúng tôi ấn tượng nhất là đèn lồng các loại. Từ đèn ú, đèn lục giác, bát giác… Tuy khác nhau về mẫu mã, hình dáng nhưng tất cả đều chan chứa tâm tình, gửi gắm “cái hồn” của làng nghề nơi đây.
Bên cạnh lớp nghệ nhân "vàng", lớp những nghệ sỹ "măng non" - nghệ sỹ trẻ là thế hệ mới sẽ đồng hành cùng nghệ thuật Ca Huế trên con đường phát huy giá trị di sản này ra cộng đồng, tiến tới hội nhập di sản quốc tế. Do đó, việc làm sao để truyền lại vẹn nguyên bản sắc, đúng cái "chất" của Ca Huế cho lớp nghệ sỹ trẻ kế tục cũng đang là vấn đề được các ban, ngành quan tâm.
Chuyên đề trọng điểm của số báo này, dành nhiều trang về Hoàng Phủ Ngọc Tường - nhà văn, nhà văn hóa Huế. Những trang văn của ông, như chiếc đũa thần, thức dậy những vỉa tầng văn hóa Huế. Một điều khác, ông cùng bạn bè thuở ấy, với một hệ mỹ cảm khác biệt, đã tạc vào văn nghệ Huế, Việt Nam những giá trị trường cửu.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Tại Huế, toàn bộ các ấn quý bằng vàng, bạc, ngọc hay còn gọi là Kim Ngọc Bảo Tỷ đến nay không còn một chiếc nào. Có lẽ thật sự đây là điều đáng tiếc nhất khi xuất xứ những chiếc ấn quý đó đều từ Huế mà ra.