Theo Nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, khi biên soạn cuốn sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, nhà văn Sơn Nam đã lặn lội từ Nam Bộ ra Huế, ngược dòng Hương Giang, lên đến ngã ba Tuần, rồi vượt sông qua bên tê tả ngạn dòng Tả Trạch để kính viếng lăng chúa Nguyễn Phúc Chu....
Chùa Thiện Khánh - dấu tích còn lại của phủ Bác Vọng
Ông Sơn Nam đã đứng trước mộ chúa thắp nhang, và chính trong nén nhang ấy, theo như lời đầu cuốn sách sau này là “về nguồn, tìm dân tộc”. Người Nam Bộ nhớ đến vị chúa là người có công đầu trong sự nghiệp mở cõi xứ Đàng Trong.
Tôi đã có một kỷ niệm thật khó quên khi đi thăm lăng cha con chúa Nguyễn Phúc Thái - Nguyễn Phúc Chu vào đầu tháng 10 vừa qua. Vùng núi Hương Thọ với những con đường làng ngoằn nghèo, cây cối rậm rạp lại ẩm ướt khiến tôi không tài nào nhớ nỗi những lối mình vừa đi qua. Thế là xảy ra chuyện “dở khóc, dở cười”. Trời đã xế trưa mà loay hoay mãi vẫn không tìm ra lăng Trường Mậu của người cha là Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng đế Nguyễn Phúc Thái (1650-1691). Định bỏ cuộc, tôi bất ngờ phát hiện ra lối nhỏ đã bị cỏ hoang che phủ. Như có một cái luồng khí lạnh chạy dọc xương sống. Như có một ai đó níu kéo. Thì ra cách nơi chúng tôi định quay lại chưa đầy 30 mét là lăng Trường Mậu, một lăng chúa Nguyễn hoang sơ, chưa thấy dấu vết can thiệp sửa chữa của người thời nay.
Khác với lăng Trường Mậu, lăng Trường Thanh nằm cách đó vài trăm mét vừa được sửa chữa mới. Có rất nhiều vấn đề xung quanh công việc tu sửa song có thể thấy, trong số những lăng của chúa Nguyễn hiện nay ở Hương Thọ, lăng Trường Thanh có cảnh quang vui vẻ, thoáng đãng. Điều này còn có nguyên nhân do vị thế của lăng nằm trên đồi cao, xoay mặt về hướng đông nam, phía trước là đồng ruộng. Nhìn trên bản đồ di tích, lăng Trường Thanh nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông Hương chừng 800m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10,5 km đường chim bay về hướng tây nam. Lăng Trường Thanh có cùng biểu thức chung của các lăng chúa Nguyễn khác, gồm 2 vòng thành. Vòng thành ngoài có chu vi 120,5m và thành cao 1,96m. Vòng thành trong có chu vi 70,3m và thành cao 2,05m. Mộ có 2 tầng. Tầng 1 rộng 136cm dài 212m và cao 22cm. Tầng 2 rộng 193cm, dài 258cm và cao 27cm. Lăng có bình phong và hưong án còn khá nguyên vẹn và rất đẹp.
Trong lịch sử “chín chúa xứ Đàng Trong”, chúa Nguyễn Phúc Chu được biết đến là một con người thông minh đĩnh đạc, đủ cả tài văn võ. Chúa rất quan tâm chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế ám giao dịch, bớt việc hình ngục. Chúa Nguyễn Phúc Chu là vị chúa có đông con nhất, cả thảy đến 146 người, trong đó có 38 người con trai. Chính chúa cũng rất tự hào về điều này khi có thơ rằng “Vàng ngọc hai hòm đều vứt bỏ. Để lại con cháu đầy một nhà…”.
Lên ngôi chúa khi mới 17 tuổi, chúa Nguyễn Phúc Chu lấy hiệu là “Thiên Túng đạo nhân”. Không chỉ tên hiệu mà cả những việc làm khi trị vì trên đỉnh cao quyền lực đều cho thấy sự mộ đạo của vị chúa còn được gọi là Quốc chúa này. Sử cũ chép rằng vừa mới lên ngôi, chúa đã cho xây dựng một loạt chùa miếu; mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ. Năm 1710, chúa sai đúc chuông lớn nặng 3.285 cân, đặt trong một lầu chuông rộng lớn ở chùa Thiên Mụ để cúng Tam Bảo. Chúa lại mời Hòa thượng Thích Đại Sán, một lão tăng ở Trung Quốc sang Thuận Hóa giảng đạo. Không chỉ là người mộ đạo, chúa Nguyễn Phúc Chu còn có tâm hồn nghệ sĩ. Chính chúa là tay cầm trống chầu lão luyện vào thế kỷ XVII. Trong sự nghiệp mở mang bờ cõi, chính Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu (1675- 1725) là người đã sai Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh chinh phục xứ Đồng Nai, dựng nên Phiên Trấn và Trấn Biên. Vì thế mới có câu “Rồng chầu xứ Huế. Ngựa tế Đồng Nai”.
Trong sự nghiệp trị vì xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Chu đã có một quyết định “gây sốc” khi dời phủ chúa về Bác Vọng (Quảng Phú, Quảng Điền). Quyết định dời đô về Bác Vọng, chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai ký lục Lê Quang Hiến vẽ bản đồ để xây dựng phủ mới và đến năm 1712 mới chính thức dời phủ từ Phú Xuân về đây, tồn tại cho đến năm 1739. Dấu xưa đã hầu như biến mất nhưng vẫn còn đó những tên gọi, những ký ức gợi nhớ về một Bác Vọng - thủ phủ với những địa danh như Thượng Phủ, Cồn Kho, Xưởng, Mô Súng…
Vượt dòng Hương Giang, lên tận vùng núi cao Hương Thọ để thăm lăng Trường Thanh của chúa Nguyễn Phúc Chu, cảm nhận công đức của vị chúa lỗi lạc lại nhớ về phủ Bác Vọng xưa. Trong hành trình xây dựng và phát triển của đô thị xứ Đàng Trong nói chung và đô thị Huế nói riêng là sự tịnh tiến về mặt không gian từ Bắc vào Nam, từ Ái Tử, Trà Bát (Quảng Trị) đến Phước Yên, Kim Long, Phú Xuân, Bác Vọng, rồi lại Phú Xuân. Rõ ràng chỉ có Bác Vọng là một điều “lạ lùng”. Sau khi tìm ra được vùng đất Phú Xuân (năm 1687), chúa Nguyễn lại rời bỏ mảnh đất đế vương này để chuyển ra đất Quảng Điền bên sông Bồ. Không thể phủ nhận, chọn Bác Vọng làm thủ phủ, chúa Nguyễn Phúc Chu đã nhìn nhận được vị thế quan trọng của vùng đất vốn là một làng cổ của xứ Thuận Hoá này. Làng Bác Vọng trải dài theo con sông Bồ và theo Dương Văn An trong “Phủ Biên tạp lục”, dân Bác Vọng xưa sống chủ yếu dựa vào “sông nước sinh nhai” và ‘đóng đăng bắt cá”. Chúa Nguyễn Phúc Chu cũng đã phát huy được truyền thống tư duy sông nước trong việc định đô, lập phố. Phủ chúa Nguyễn Phúc Chu lấy sông Bồ làm mặt tiền cũng như trước đó chúa Nguyễn Phúc Nguyên dựng phủ Phước Yên trước dòng sông này. Ngoài ra, thời gian đóng đô ở Bác Vọng cũng là thời gian xây dựng lại thủ phủ Phú Xuân.
Mỗi con người đều gắn liền với một vùng đất lịch sử với những phận số khác nhau. Chính chúa Nguyễn Phúc Chu là người đã nhìn nhận ra và nâng tầm vị thế của Bác Vọng để hôm nay trong ký ức của mỗi một chúng ta còn lại hoài niệm về một thủ phủ xưa bên dòng sông Bồ lịch sử.
Theo Đình Nam
http://songnuoctamgiang.com.vn
Lối kiến trúc độc đáo thuộc hệ phái thevarada (Nam tông) tạo cho chùa Thiền Lâm một nét đẹp khác biệt so với các cổ tự đất cố đô.
Cố đô Huế bây giờ không còn trầm mặc, phong cảnh về đêm thật quyến rũ bởi việc chiếu sáng nghệ thuật cầu Trường Tiền.
Sáng 10-3, Sở VHTT&DL tỉnh Thừa Thiên- Huế phối hợp với UBND huyện A Lưới đã tổ chức lễ hội Ariêu Car_một trong những lễ hội văn hóa truyền thống lớn với sự tham gia đông đảo cộng đồng người dân tộc thiểu số Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pa Hy đang sinh sống ở địa bàn vùng cao huyện A Lưới .
Nhà vườn An Hiên, phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn, Xuân Viên Tiểu Cung... là những nhà vườn đẹp bậc nhất xứ Huế. Hệ thống kiến trúc dân gian này là một điểm nhấn trong khám phá nét đẹp văn hóa Cố đô.
Lễ hội A riêu Car là dịp để các dân tộc hội tụ, thể hiện tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống.
Là món ăn có cái tên khiến nhiều người phải ngẩn ra vì nghe quá lạ, canh chột nưa chinh phục thực khách bởi hương vị đậm chất quê và cái tình của người dân Huế.
SHO - Sáng ngày 21/2 (14 Tháng Giêng năm Bính Thân), Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chuyến đi Viếng mộ thi nhân tại các nghĩa trang trên địa bàn thành phố Huế tưởng nhớ các văn nghệ sĩ đã khuất . Đây là năm thứ tám văn nghệ sĩ Cố đô Huế tổ chức đi viếng mộ thi nhân vào dịp Tết Nguyên tiêu.
Không biết có tự bao giờ mà hoa tre là lễ vật không thể thiếu trong lễ "cúng bổn mạng" đầu năm của mỗi gia đình xứ Huế. Nội tôi kể rằng: Thuở xưa khi chưa có "ông tổ" khai sinh ra loại hoa tre thì người ta "cúng bổn mạng" bằng hoa thọ. Hoa thọ mang ý nghĩa trường tồn, cầu mong được sống lâu để sum vầy cùng con cháu.
Là kinh đô xưa cổ còn được lưu giữ gần như toàn vẹn nhất cho đến bây giờ, Tết ở Huế tượng trưng cho sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại.
Cặp rắn này chỉ xuất hiện tại chùa vào các ngày sóc vọng (các ngày 1, 15, 30 hàng tháng) và trú lại qua đêm trong hang cây da cổ thụ rồi lặng lẽ bỏ đi. Thấy chuyện lạ, một số người cho rằng đây là đôi rắn “có chân tu” nên mới về chùa để “nghe giảng giải kinh Phật”...
Bấy lâu nay, nhiều người dân, du khách vẫn thường nhắc đến con rùa khổng lồ thi thoảng xuất hiện trên dòng sông Hương, đoạn trước mặt điện Hòn Chén (thuộc thôn Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên – Huế). Người dân địa phương gọi đó là “rùa thần”.
Có thể nói, trong số hàng trăm sản phẩm bằng tre của các nghệ nhân làng Bao La (xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) tạo nên, chúng tôi ấn tượng nhất là đèn lồng các loại. Từ đèn ú, đèn lục giác, bát giác… Tuy khác nhau về mẫu mã, hình dáng nhưng tất cả đều chan chứa tâm tình, gửi gắm “cái hồn” của làng nghề nơi đây.
Bên cạnh lớp nghệ nhân "vàng", lớp những nghệ sỹ "măng non" - nghệ sỹ trẻ là thế hệ mới sẽ đồng hành cùng nghệ thuật Ca Huế trên con đường phát huy giá trị di sản này ra cộng đồng, tiến tới hội nhập di sản quốc tế. Do đó, việc làm sao để truyền lại vẹn nguyên bản sắc, đúng cái "chất" của Ca Huế cho lớp nghệ sỹ trẻ kế tục cũng đang là vấn đề được các ban, ngành quan tâm.
Chuyên đề trọng điểm của số báo này, dành nhiều trang về Hoàng Phủ Ngọc Tường - nhà văn, nhà văn hóa Huế. Những trang văn của ông, như chiếc đũa thần, thức dậy những vỉa tầng văn hóa Huế. Một điều khác, ông cùng bạn bè thuở ấy, với một hệ mỹ cảm khác biệt, đã tạc vào văn nghệ Huế, Việt Nam những giá trị trường cửu.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Tại Huế, toàn bộ các ấn quý bằng vàng, bạc, ngọc hay còn gọi là Kim Ngọc Bảo Tỷ đến nay không còn một chiếc nào. Có lẽ thật sự đây là điều đáng tiếc nhất khi xuất xứ những chiếc ấn quý đó đều từ Huế mà ra.
Những biến cố của lịch sử đã khiến cho một lượng cổ vật lớn và quý hiếm đã “biến mất” khỏi cố đô Huế. Hãy cùng lật lại những điểm mốc ấy.
Triều đại phong kiến vua Nguyễn cuối cùng tại Huế đã trải qua với bao biến cố lịch sử. Hàng vạn cổ vật quý hiếm đi cùng triều đại này hiện đã mất mát quá nhiều, không còn “ở lại” được trên mảnh đất nó đã từng tồn tại.
Hai đồng tiền cổ quý hiếm là loại tiền dùng để ban thưởng chứ không dùng để trao đổi, mua bán có tên là “Gia Long thông bảo” và “Minh Mạng thông bảo” với kích thước rất lớn vừa được một người dân ở Quảng Bình lần đầu phát hiện.