NGUYỄN ĐẠI DUẪN
Đã cuối tháng Chạp mà nắng còn như đổ lửa. Nắng mùa khô ở Lào thật khó chịu, lúc thì nóng nực, lúc thì lất phất mấy ngọn gió khô khốc.
Minh họa: Phan Thanh Bình
Ở quê tôi, có lẽ đang tiết mưa phùn gió bấc, trời se se lạnh. Những ngọn gió cuối đông đang rủ hết những chiếc lá vàng sót lại chuẩn bị đâm chồi nảy lộc đón xuân. Chắc mẹ còn cấy vội mấy sào ruộng khoán cho kịp chợ tết, bố loay hoay chẻ lạt, hái lá dong chuẩn bị gói bánh chưng… mấy đứa em háo hức quần áo mới.
Xung quanh doanh trại bộ đội gọn gàng sạch sẽ. Trước cổng, những câu biểu ngữ đón xuân căng lên khiêm nhường. Lá cờ Tổ quốc tươi thắm đang phần phật tung bay làm vui thêm không khí tết của các chiến sĩ xa nhà.
Phiên họp đột xuất của Tiểu đoàn bộ kết thúc trong không khí vui vẻ. Đồng chí tiểu đoàn trưởng kết luận:
- Được sự nhất trí của trung đoàn, tiểu đoàn chúng ta sẽ cho một số đồng chí có thành tích xuất sắc được nghỉ phép về quê ăn tết.
Tiếng vỗ tay rào rào xen lẫn tiếng nói, tiếng cười. Phá vỡ không khí ồn ào, ông tiểu đoàn trưởng “e hèm” lên giọng:
- Như vậy tiểu đoàn chúng ta sẽ có năm mươi đồng chí được về tết, đó là những đồng chí có thành tích xuất sắc trong công tác, không quản mưa nắng bám trụ trên công trường, để làm xong cầu trước thời hạn. Riêng tiểu đoàn bộ gồm các đồng chí sau…
Thằng Sói - bạn cùng nhập ngũ - ngồi cạnh tôi nói chen ngang:
- Thế là thằng Đại đợt này không có danh sách được về rồi! Chiến sĩ “nuôi quân xuất sắc” làm sao bì được “lính công trường”!
Cắt lời Sói, tiểu đoàn trưởng nói:
- Riêng đồng chí Đại, mặc dù đạt chiến sĩ xuất sắc nhưng vì tính chất công việc, đồng chí ở lại phục vụ tết cho đơn vị. Có gì tôi trao đổi sau!
Vậy là tôi không có danh sách về tết trong đợt này. Bao nhiêu dự định đều tiêu tan, nào là mua cho mẹ cân mì chính, mua cho chị cái áo phông đỏ, đôi dép tông về cho em, cho bố gói thuốc lá thơm, thế mà giờ đây… Lòng tôi như có cái gì đó nghèn nghẹn.
*
Do công tác tích cực nên ở đại đội làm cầu, tôi được điều về làm quản lý bếp ăn tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 38. Công việc làm quản lý thật đơn điệu, xuất lương thực phẩm cho anh nuôi, ghi chép chi tiêu trong ngày, quyết toán lương phụ cấp tháng cho anh em đơn vị.
Thấy tình hình ăn uống của anh em thất thường, thức ăn không đủ ngon, những món ăn hằng ngày là cá khô, rau rừng, mắm tôm, cá hộp. Các ngày lễ mới có bữa thịt tươi. Thỉnh thoảng, anh em đem lờ ra sông Sê Pôn thả, may sao có con cá choạc cải thiện. Cơm thừa nhiều, lãng phí. Để cải thiện bếp ăn, tôi đề xuất với thủ trưởng cho phép tôi và hai đồng chí nuôi quân ngoài công việc thường ngày chúng tôi sẽ chăn nuôi lợn, gà và trồng rau màu. Được thủ trưởng cho phép, các bộ phận ủng hộ, tôi và hai đồng đội bắt tay vào việc, làm chuồng trại, cuốc đất, vào bản mua lợn, gà giống. Với vốn hiểu biết trong sách vở và kinh nghiệm qua thực tế mấy năm dạy học, tôi áp dụng vào việc chăn nuôi lợn, gà, trồng rau cải, bầu bí, trồng chuối… Thằng Sói tuy hay dậy muộn, lười nghĩ nhưng được cái nó siêng năng tích cực lắm. Phân công việc gì nó cũng hoàn thành tốt. Đơn vị có thêm thực phẩm ngon, bữa ăn được cải thiện, tin thần anh em tăng lên rõ rệt. Thỉnh thoảng tôi và anh em nuôi quân còn đi lấy măng rừng, phơi khô dự trữ. Tôi được anh em đơn vị tín nhiệm bình chọn là “Chiến sĩ nuôi quân xuất sắc”.
*
Theo kế hoạch, tôi cũng được theo xe “lên đường” về nước trong dịp này. Nhưng không phải về quê ăn tết mà về chợ Đông Hà mua một số thực phẩm, gia vị chuẩn bị cho đơn vị đón tết. Đúng 7 giờ 30 phút, xe chở các chiến sĩ về phép tết lên đường. Chiếc xe tải chẳng có ghế ngồi. Mọi người đu bám tay vào mấy cọc sắt trên trần xe. Xe lắc lư, thỉnh thoảng qua ổ gà, xuống dốc, xe phanh đột ngột làm mọi người dúi dụi vào nhau. Đường nhiều chỗ làm chưa xong bụi cuốn lên mù mịt. 11 giờ trưa, xe về đến Đông Hà, mọi người ra ga tàu để mua vé về quê. Đồng chí quân lực Trung đoàn dặn dò:
- Các đồng chí về ăn tết vui nhé, cho mình gửi lời chúc tết đến gia đình, nhớ trả phép đúng hạn! Riêng đồng chí Đại về Trạm Sư đoàn nghỉ, rồi đi mua thực phẩm, đợi anh em lên Đăc K’rông hai ngày sau quay lại.
Hai ngày, thế là mình có điều kiện tranh thủ “trốn” về nhà. Từ Đông Hà về quê chỉ 80 km, đi xe đò đến tối cũng về nhà chơi rồi vào cũng kịp, còn thực phẩm, gia vị về nhà mua thoải mái.
Đợi mua vé xe hơn một tiếng, nhờ được ưu tiên bộ đội đi công tác. Một chị xếp hàng sau tôi vừa đến lượt thì hết vé. Tay xách đồ, tay bế cháu nhỏ đang ngủ gà ngủ gật trông khổ sở. Tôi hỏi:
- Chị về đâu vậy?
- Về Đông Hới chú à! Đợi mua vé hai ngày rồi mà khách nhiều quá, xe chạy tết không đủ, mẹ con tui khổ ghê!
Cầm tờ vé trên tay, lòng phân vân, không về thì tiếc lắm, mà thấy cảnh chị ấy tội quá. Thôi! Đành lòng giúp chị ấy về quê coi như lấy phúc vậy.
- Thôi chị cứ cầm vé của em đây mà về. Có gì em mua rồi về sau!
- Không được mô chú! Chú cứ về đi, chị chịu khó chờ, biết mần răng được!
Tôi nói mãi rồi chị cũng cầm vé, mừng quá chạy lên xe cho kịp. Tôi thẫn thờ mấy phút, quên bẵng hỏi tên chị.
Hai ngày trôi qua, xe đơn vị cũng vừa đến. Tôi sắp xếp hàng hóa gọn gàng.
Xe chạy bon bon trên đoạn đường mới làm. Gió vi vu mơn man ùa vào ca bin, lòng tôi thấy nhẹ nhõm cất lên bài hát: “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”. Bỗng phía trước có tín hiệu cho xe dừng. Lại ông tướng nào muốn gây sự đây? Không phải, đó là xe của Sư đoàn bộ đi Đông Hà, bị thủng lốp xin cứu trợ. Thế là hì hà hì hục, mấy anh em tháo, lắp… mất mấy tiếng.
Về đến tiểu đoàn bộ thì trời nhá nhem. Mấy anh em lại khuân hàng, tranh thủ cấp hàng tết cho các đại đội.
Đêm ba mươi tết, không khí đón giao thừa thật vui. Đơn vị tổ chức hái hoa dân chủ. Những bài thơ, bài hát về mùa xuân rộn rã vang lên trong không khí đón giao thừa. Sau đó anh em quây quần bên chiếc Rađiô lắng nghe lời chúc tết của Chủ tịch nước.
Sáng Mồng một tết. Mọi người tập trung về hội trường đông đủ để nhận nhiệm vụ. Mặc dù làm quản lý nhưng tôi được phân công phụ trách trang trí hội trường vì có năng khiếu cắt, vẽ. Việc bếp núc giao cho thằng Sói phụ trách cùng với bộ phận hậu cần.
Ai nấy vào việc. Trên bục sân khấu hội trường, chân dung ảnh Bác đặt ngay ngắn dưới Quốc kỳ đỏ thắm. Phông màn nổi bật câu khẩu hiệu: “Chúc Mừng Năm Mới - Xuân Quý Hợi, 1983” phông chữ mềm mại như đang bay múa trong gió. Cành đào, cành mai tự tạo bằng cây rừng, hoa làm bằng giấy màu ngũ sắc, cũng gần như thật, được đặt đối xứng hai bên cánh gà. Sau vách hội trường là câu khẩu hiệu: “Mừng Đảng, mừng xuân, đồng khởi ra quân, lập công thắng lợi”. Đang phân vân chưa biết để mấy giò phong lan ở đâu thì thằng Sói hớt hải chạy lên:
- Nguy rồi, nguy rồi Đại ơi!
- Cái gì, nguy cái gì?
- Nồi cơm bị khê rồi!
Quái! Trong kế hoạch có nấu cơm đâu? Thằng Sói nói: “Thủ trưởng bảo có mấy cân gạo Tám Xoan, nấu mời khách kẻo bạn Lào họ ăn nếp quen rồi, bây giờ nấu cơm để đổi món”.
- Thôi! Cậu yên tâm. Ra thay nồi cơm, vào chỗ anh Viên trưởng bộ phận hậu cần, nói với anh ấy “nhượng” lại số gạo Tám Xoan, hôm qua vợ anh ấy có gửi làm quà, đang còn thơm lừng đó. Làm nhanh lên kẻo không kịp! Nó mừng quýnh, không kịp cảm ơn tôi rồi chạy vụt đi.
Đến 10 giờ trưa, mọi việc đâu vào đấy. Mâm cỗ vừa dọn lên thì đoàn khách của Bản Đông cũng vừa đến. Những câu chào hỏi của khách và chủ vui nhộn trong khung cảnh nghiêm trang, ấm cúng. Ông trưởng bản bắt tay mọi người, miệng luôn nở nụ cười: “Xăm-bai-đi, xăm-bai-đi (Xin chào)!” Chúng tôi cũng nhiệt tình đáp lễ: “Khop chay, khop chay (Cảm ơn)!”.
Tiểu đoàn trưởng thay mặt anh em đơn vị tuyên bố lí do và chúc tết mọi người. Không khí tết vui vẻ, nồng ấm. Có chút hơi men, tiếng cụng ly chúc tết, tiếng cười nói như có phần rôm rả hơn. Một cái tết tuy đơn giản nhưng đầy ý nghĩa tình đồng đội, tình quốc tế cao cả. Sau bữa tiệc là tiết mục văn nghệ tự diễn. Không có đàn, trống, anh em lấy soong nồi, bát đũa khua nhịp. Tiếng leng keng, loong coong rộn rã giữa ban trưa dội vào vách núi, ai nấy đều thấy dễ chịu như mình đang tết ở quê nhà.
*
Vậy mà, đã hơn 30 năm trôi qua. Mỗi khi gặp lại nhau, chúng tôi luôn nhắc về kỷ niệm cái tết trên đất bạn Lào. tình cảm về đời lính, tình cảm bộ đội với dân bản vẫn còn in đậm trong ký ức của chúng tôi.
Tết năm nay, thằng Sói dẫn con, cháu nó về nhà tôi ăn tết. Bên mâm cỗ, hai gia đình quây quần đoàn tụ vui vẻ. Hai đứa chúng tôi ôn lại những kỷ niệm đẹp đẽ trong những năm tháng binh nghiệp cho các con nghe. Nó nhắc lại chuyện nồi cơm khê một cách say sưa. Rồi nó trầm ngâm:
- Tớ kể chuyện những ngày quân ngũ, chuyện tết trên đất bạn Lào cho con nghe. Các con nó bảo, bố không kể chuyện cổ tích đấy chứ?
Nói đến đây, thằng Sói cao giọng:
- À! Phải rồi, cậu phải viết, viết về những người lính Trường Sơn, những ngày vất vả, thiếu thốn với những cơn sốt rừng, đã làm nên con đường tình nghĩa Việt - Lào; viết về kỷ niệm tết ngày xưa, nếu không bọn trẻ bây giờ nó không biết chúng mình đã gian khổ như thế nào để chúng nó mới có cuộc sống tươi đẹp như ngày hôm nay.
Ngoài đường, những đoàn người áo quần đủ sắc màu đi trẩy hội đầu xuân vang tiếng nói, cười rộn rã. Trời rắc nhẹ những hạt mưa bụi trên cành đào, nụ mai càng làm tăng thêm vẻ đẹp long lanh của cái tết thanh bình.
N.Đ.D
(TCSH372/02-2020)
NGÔ HỮU KHOADưới gốc cây Sau Sau, thứ cây có thân gỗ nhưng muốn mang đốt cũng không cháy, dùng làm gỗ thì nhanh mục nên mới được sống tươi tốt ở vùng rừng thường xuyên được dân sơn tràng lui tới. Dũng trong thế ngồi co quắp, hai bàn tay giấu dưới vạt áo mưa để vừa tự sưởi ấm cho cơ thể vừa giảm tiết diện để tránh những hạt mưa lạnh buốt lọt qua tán lá rậm rạp, những hạt mưa mùa không biết mệt mỏi cứ rơi và rơi…
NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.
MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.
PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.
HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.