TRỌNG BÌNH
Những vũ khúc cung đình Huế luôn mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Ở đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt.
Vũ khúc cung đình Đấu Chiến Thắng Phật
Dưới triều Nguyễn, chỉ còn lại 11 vũ khúc, lời hát được viết hoàn toàn bằng chữ Hán. Khi trình diễn, các vũ sinh miệng ca, tay múa theo điệu nhạc hòa tấu. Điển hình là các điệu: Lục cúng hoa đăng, Trình tường tập khánh, Phụng vũ, tứ linh, Vũ phiến, Đấu Chiến Thắng Phật...
Vũ khúc cung đình Đấu Chiến Thắng Phật thường được múa vào các ngày lễ Vạn thọ, Thánh thọ, Tiên thọ và cúng mụ. Đây là vũ khúc cung đình nói về Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp, nên nó mang hơi thở của đời sống văn hóa nghệ thuật đã từng ngày thổi vào đây những sắc thái mới và trở thành một vũ khúc cung đình hoàn thiện nơi chốn cung vua, phủ chúa.
Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong “Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam”, đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Đào Duy Từ xem kinh Phật đặt ra vũ khúc này, chủ ý trừ yêu ma quỷ chướng. Vì điệu múa có hai vị thần là Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp nên còn có tên gọi là múa Song Quang.
Có thể nói, những vũ khúc cung đình của Huế là một bước chuyển tiếp của múa cung đình các triều đại trước đó để đi tới sự hoàn mỹ. Và bắt đầu bằng sự kiện dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635), Đào Duy Từ vì xuất thân con nhà xướng hát không được đi thi nên đã phẩn chí, quyết vào Nam phò giúp chúa Nguyễn. Chính Đào Duy Từ là người đầu tiên tạo tiền đề cho múa hát cung đình Huế. Ông đã lập ra Hòa Thanh Thự, luyện tập một ban vũ và nhạc để múa hát vào những ngày khánh lễ. Đào Duy Từ là người có công sửa lại các điệu múa cung đình cổ trước đó và sáng tác ra một số điệu múa khác. Đặc biệt ông đã dựa theo tích truyện để sáng tác nên vũ khúc cung đình Đấu Chiến Thắng Phật. Chính những yếu tố này đã làm nên một nét riêng biệt trong chốn Hoàng cung.
Nghệ nhân La Hùng (con trai cố nghệ nhân La Cháu - Nghệ nhân tuồng và múa hát cung đình cuối cùng của triều Nguyễn) cho biết, Tề Thiên Đại Thánh sau khi thỉnh xong kinh Phật, thành chính quả, được phong danh hiệu Đấu Chiến Thắng Phật. Trong điệu múa nhân vật Tề Thiên Đại Thánh đầu đội mũ đầu đông (theo các nghệ nhân múa cung đình ở Huế, Tề Thiên Đại Thánh đội mũ thất Phật mới đúng), khuôn mặt được vẽ như mặt khỉ, mặc áo giáp, xiêm trường quần giáp, chân đi giày nịt dây, lưng giắt bửu bối, tay cầm kim côn; Hộ Pháp mặt trắng, môi đỏ, đầu đội mũ kim khôi, mặc áo giáp, chân đi hia nịt dây, lưng thắt thần thông bửu bối, tay cầm bửu chử. Và khi âm nhạc vừa cất lên, lần lượt hai nhân vật cùng bước ra sân khấu. Tề Thiên Đại Thánh tay múa kim côn, cúi mình chào khán giả, tiếp đến nhân vật Hộ Pháp tiến lên sân khấu, bộ điệu oai nghiêm, làm động tác khai (một động tác thường được sử dụng trong nghệ thuật tuồng - NV) để chào khán giả. Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp chào nhau, cùng biểu diễn những chiêu thức rồi dàn trận đánh nhau. Hai nhân vật vờn qua, vờn lại, hô phong, hoán vũ với nhiều điệu bộ là những động tác của vũ đạo tuồng cung đình Huế như: Khấu nhị hiệp bán, xoan, xỏ, ký, cầu, xoay, cất bản,... Tuy nhiên, dù trận đánh được miêu tả đến long trời, lở đất, nhưng Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp đã không ai thắng ai, bởi mục đích và ý nghĩa của vũ khúc này là nhằm nói đến cái đạo giúp đời. Do đó, trong vũ khúc này, hai nhân vật Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp đã đọc 4 câu kệ để khử trừ yêu quái, mong đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
Kình thiên bửu chử hàng ma chướng
Dốc hải kim côn ngộ tịnh duyên
Cộng chuyển pháp luân quang phổ chiếu
Quang minh thế giới khánh Nam thiên
Dịch nghĩa:
Chọc trời chày báu hàng phục ma chướng
Góc biển gậy vàng tỉnh ngộ tịnh duyên
Cùng quay bánh xe pháp soi sáng khắp nơi
Mừng trời Nam cõi đời sáng sủa
Theo các nghệ nhân múa cung đình Huế, khi dựa vào kinh Phật để xây dựng nên điệu múa Đấu Chiến Thắng Phật, với nhân vật là Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp, giới quan liêu triều Nguyễn mong muốn một thế giới hòa bình, mục đích chung là phục vụ cho triều đại, cho giai cấp chính thống. Chính việc miêu tả trận chiến không phân thắng bại, nhưng cuối cùng vẫn vui vẻ với nhau, giữ hòa khí cùng nhau giữa hai nhân vật Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp, là mục đích nhắc nhở cuộc đời chẳng bao giờ có kẻ thắng người bại, mà hãy cùng nhau đánh tan đi cái ác, cái xấu xa, đang hiện diện trong xã hội để hướng đến một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc.
T.B
(SH324/02-16)
Với mục đích bảo tồn những vốn quí mà cha ông để lại và đặc biệt là sau khi Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại thì Nhã nhạc đã được chú ý hơn, nhưng cái đáng quan tâm hơn hết là vấn đề đi tìm lại những ‘mảnh vỡ” của một số bài bản Nhã nhạc đang lưu lạc ngoài dân gian nhằm mục đích khôi phục để trả nó về với môi trường diễn xướng nguyên thủy là chốn cung đình xưa. Tác phẩm Nhã nhạc “Thái Bình Cổ Nhạc” cũng là một trong những “mảnh vỡ” vừa được lập hồ sơ khoa học và báo cáo.
LÊ MAI PHƯƠNG
Tuồng, loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc manh nha hình thành từ thế kỷ XIII dưới thời Trần. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang triều Nguyễn (thế kỷ XIX) Tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hóa ở cung đình cũng như trong dân gian. Sau khi nhà Nguyễn cáo chung, Tuồng cũng mất đi môi trường diễn xướng, hiện nay đang có nguy cơ mai một dần.
HOÀNG TRỌNG CƯƠNG
Trong một số tài liệu về âm nhạc cung đình của những tác giả tiền bối, cây đàn bầu Việt Nam đã được dự đoán về niên đại ra đời của nó, về sự thăng trầm song hành cùng với chiều dài lịch sử dân tộc.
TRẦN VĂN KHÊ
Từ 10 năm nay Nhã nhạc cung đình Huế được Unesco tôn vinh là một kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, là một danh hiệu rất lớn so với những danh hiệu sau này (Unesco đã bỏ chữ “kiệt tác” và thay thế chữ “của” bằng chữ “đại diện”), vì những lẽ đó mà việc bảo tồn và phát triển nhã nhạc Huế có phần khó khăn.
HÀN NHÃ LẠC
Có lẽ hiện giờ ở Huế, không có ai cảm và chơi ca Huế được như nhà văn Bửu Ý. Ông thường nói cái hay của ca Huế, nghe hay đến nhức xương. Và ngay từ khi vợ ông, cô Lợi còn sống, mỗi thứ bảy, gia đình ông lại tổ chức nghe ca Huế nhức xương một buổi.
Sau khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, âm nhạc cung đình cũng mất đi môi trường diễn xướng nguyên thủy, do đó loại hình nghệ thuật này đã theo chân các nghệ nhân cung đình lan tỏa về với dân gian, tác động vào nghệ thuật dân gian trên nhiều vùng văn hóa trong cả nước.
TRỌNG BÌNH
Nghệ thuật Múa Cung đình Huế mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Trong múa cung đình, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt, điển hình là các điệu: lục cúng hoa đăng, trình tường tập khánh, phụng vũ, tứ linh, vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng...
VÕ QUÊ
Dân tộc Việt Nam do hoàn cảnh địa lý và các điều kiện khách quan khác đã có một nền văn hóa đa dạng, trong đó bộ môn Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau.
(SHO) Ca sĩ Hà Thanh vừa mất lúc 7g27 đêm 1-1 (giờ địa phương, tức sáng 2-1 giờ VN) tại TP Boston, tiểu bang Massachusetts (Mỹ) sau thời gian mắc bệnh ung thư máu.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Văn Giảng, con người của những nốt nhạc mơ mộng chân nhiên nơi miền non nước Hương Bình đã dấn thân trong miền giao cảm của nước, của sông, của tiếng chuông chùa ngân vọng để viết nên những ca khúc bất hủ Ai về sông Tương, Đôi mắt huyền, Từ Đàm quê hương tôi... tô vẻ thêm cho tiếng lòng vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN DŨNG
Ở Huế có câu hò nổi tiếng tới mức không người Huế nào không được nghe, không du khách nào không từng một lần thưởng thức:
NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI
Theo dòng chảy của lịch sử, Ca Huế giờ đây không còn là sản phẩm phục vụ riêng cho một tầng lớp nhất định trong xã hội: giới quý tộc. Cùng với xu hướng xã hội hóa, hiện nay loại hình nghệ thuật này nghiễm nhiên gần gũi hơn với công chúng Huế nói riêng và du khách thập phương nói chung.
TRỌNG BÌNH - QUÝ CÁT
Nền âm nhạc cổ truyền nói chung và Âm nhạc cung đình Việt Nam nói riêng từ xa xưa đã có một kiểu chữ nhạc riêng dùng để ký âm, ghi chép thành văn bản tất cả các bài bản để lưu truyền qua nhiều thế hệ...
HỒ THẾ HÀ
Năm con rồng Nhâm Thìn (2012), Mai Xuân Hòa tròn 82 tuổi đời và nếu tính từ ngày anh tham gia học lớp âm nhạc ngắn hạn đầu tiên năm 1956, trước khi chính thức học ở trường Âm nhạc Việt Nam (1958 - 1962) thì anh đã có 56 tuổi nghề âm nhạc.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Huế - theo dòng chảy của thời gian, đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử; âm nhạc Huế cũng không nằm ngoài “luồng” của dòng chảy đó.
MAI XUÂN HÒA (Thơ: Nguyễn Tất Thịnh)
Phải chăng em là gió/ phải chăng em là mây/ Gió nghiêng chao nhè nhẹ/ mây bồng bềnh bay bay…
Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản”.
Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.
Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.
Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.