NGỌC THẢO NGUYÊN
Buổi sinh hoạt được đặt tên là Tọa đàm bàn tròn về thơ. Đây là buổi sinh hoạt mang tính chất thử nghiệm của Phân hội văn học (lại một cách nói rào đón nữa chăng?)
Ảnh: internet
Đến dự có gần đầy đủ các tác giả quen biết trong tỉnh: Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khắc Phê, Hồng Nhu, Hải Bằng, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Trọng Tạo, Ngô Minh, Lê Thị Mây, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Quang Hà, Bửu Ý, Vĩnh Nguyên... Có một người khách: anh Tân Quỳnh, phóng viên thường trú ở miền Trung của Báo Nông Nghiệp và cả một lớp chuyên văn của cô giáo Quỳnh.
Hai vấn đề, câu hỏi gợi mở của những người tổ chức xem ra có vẻ kinh điển, mông lung: 1) Quan niệm riêng về thơ; 2) Nhận định về tình hình thơ ca hiện nay - Có một số tác giả khi nhận được câu hỏi gợi mở đã chắt lưỡi: Ôi! Đặt ra làm gì, người ta đã nói tràn đìa ra rồi!
Anh Thái Ngọc San, người chủ trì buổi tọa đàm, phát biểu mở đầu thay lời đề dẫn, cũng đã xuýt xoa như vậy: Quả là nhân loại năm châu người ta đã đua nhau định nghĩa, thế nhưng, theo anh, người ta sẽ còn tiếp tục định nghĩa nữa; cho nên vấn đề đặt ra chắc sẽ không thừa và, biết đâu, từ đây sẽ bật lên một vài ý nghĩa thi vị đóng góp vào kho tàng thơ ca chăng?
Riêng anh (TNS), anh quan niệm, việc làm thơ của mình như là ném bom xăng vậy; trái bom hội đủ xúc tác thì phát tiếng nổ và bung lên ngọn lửa, bằng không thì chỉ còn là những tiếng rổn rảng của những mảnh vụn thủy tinh. Đây là cách vi von của người một thời tham gia phong trào đấu tranh đường phố.
Về tình hình thơ ca hiện nay anh Thái Ngọc San có một đề nghị: Đã đến lúc các nhà nghiên cứu văn học nên có cái nhìn toàn diện, đầy đủ và công minh về toàn bộ lịch sử văn học cận đại sau một thời gian dài đất nước chia cắt. Anh lưu ý đến một vài sự kiện quan trọng, hay là những cái mốc trong việc đổi mới thơ ca, trong đó cần xem điểm mốc sau năm 1954...
Anh Bửu Ý, nhà nghiên cứu văn học phương Tây, đã phát biểu bổ sung lời đề dẫn, về một số tình hình thơ ca nước Pháp: Theo đúc kết của anh, quả là nhân loại có xem thi sĩ như là Thượng đế thật (anh Thái Ngọc San có nói ý này) thế nhưng cũng có người xếp nhà thơ vào hạng người không ra gì và có một sự thực không ai chối cãi: Hiếm có nhà thơ nào sống bằng thơ cả, nghĩa là bán thơ để tự nuôi sống, ngoài một trường hợp đặc biệt: Đó là Jacques Prévert ở Pháp, tập thơ ông có tập còn nằm ở nhà in đã có người lũ lượt đăng ký đặt mua. Nói đến các trường phái, các nhóm thơ ca, theo anh Bửu Ý, ở Việt Nam từ trước đến nay chưa hình thành nên một trường phái nào hẳn hoi, nghĩa là có tuyên ngôn về khuynh hướng thơ ca của mình, ngoài nhóm Xuân thu nhã tập, với tuyên ngôn Thơ là đạo...
![]() |
Một người theo cách nói của dân Huế, rất "ít ỏi”, không mấy khi đăng đàn phát biểu trong các buổi hội họp, hôm nay đã làm cho mọi người ngạc nhiên và nhiệt liệt ủng hộ. Đó là anh Nguyễn Khắc Thạch, chánh văn phòng của Hội. Anh Thạch đăng đàn với nội dung chuẩn bị dài chi chít cả mấy trang sổ tay, không kể mấy xấp báo kèm theo làm tư liệu trích dẫn. Trước hết anh tổng lượt qua một số quan niệm về thơ của người khác, như: Thơ là không gì cả nhưng là tất cả; là sự cảm hứng của sự chênh vênh, hoang mang, cô đơn... là cảm xúc của tâm và trí v.v và v.v; cuối cùng đi đến quan niệm của riêng anh: Thơ là cuộc đời, là vết sẹo của sự thật. Từ quan niệm này anh đưa ra một số nhận định về thơ hiện nay và, theo anh, đúc kết lại có 2 loại: 1)Thơ báo chí, 2) Thơ văn học; thơ báo chí chỉ có một nghĩa, còn thơ văn học thì đa nghĩa. Tất nhiên khi phân loại như thế này ai cũng hiểu anh Thạch muốn nói gì và anh hướng về loại thơ nào. Tiếp theo, anh Thạch đề cập đến một vấn đề đã trở thành điểm nóng tranh cãi một thời: Quan hệ giữa chính trị và văn nghệ. Trước hết anh cho rằng chính trị là đời, thơ là đạo, một bên dẫn dắt người ta đi từ Đại lộ vào Ngõ hẻm, một bên hướng đi từ Ngõ hẻm ra Đại lộ, cho nên mối tình này khó mà hòa hợp. Từ kết luận bất ngờ này anh Thạch đi tới một quan niệm mới: Thơ đồng nghĩa với hiểm họa và anh kêu gọi các nhà thơ không bán mình...
Có một ý kiến của anh Nguyễn Khắc Thạch không được người khác đồng tình, khi anh lớn tiếng phủ nhận cái mà anh gọi là Thơ văn xuôi (nói chính xác là thơ xuôi). Anh Bửu Ý nghĩ có lẽ anh Thạch quá ảnh hưởng kinh điển nên mới dám lớn tiếng như vậy, bởi vì xu hướng vần điệu trong thơ ca thế giới hiện nay đang bắt đầu suy tàn...
Nhà thơ Ngô Minh, tác giả "Chân dung tự họa", cũng đồng ý rằng việc bày ra chuyện ngồi định nghĩa thơ như thế này có vẻ hơi thừa, cần tìm ra một phương thức nào khác hay hơn. Thế nhưng anh cũng say sưa phát biểu quan niệm của mình. Theo anh lao động thơ ca là loại lao động cá biệt, khi khỏe chẳng nặn ra một câu nhưng khi đau yếu thì thi tứ lại bật ra tràn trề, đôi khi nhờ sự may rủi... Và có được sự đồng cảm hay không đồng cảm chẳng có gì quan trọng, bởi vì có ở cùng chung nhau trong một từ trường thì mới bắt được làn sóng của nhau, bằng không thì đừng hòng, riêng nhà thơ thì cứ thế mà làm...
Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, Phó tổng biên tập mới của Sông Hương, nói rằng anh nhớ hình như trước kia anh có làm thơ - (đúng vậy, xin nhắc anh Xuân cái bút hiệu Tâm Hằng hơn 20 năm trước) - và anh đã đúc ra một kết luận mà chắc không ai tranh cãi: Bài thơ nào cảm xúc cao thì bài thơ đó đạt. Rồi anh quan niệm: Thơ phải thực. Anh Dương Thành Vũ, tác giả tiểu thuyết Đứa con Nguyệt thực, quan niệm thơ một cách vắn tắt: Thơ là kinh.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ (nghe nói có làm rất nhiều thơ nhưng chỉ để cho một ai đó đọc) rất tán thành ý kiến anh Nguyễn Khắc Thạch và đồng ý với quan niệm: Thơ đồng nghĩa với hiểm họa (có lẽ anh Vỹ đang ngậm ngùi nhớ lại những bài thơ "tai tiếng" trên Sông Hương thời anh còn làm Tổng biên tập chăng?) Anh Vỹ nói thêm, theo anh dân trí thơ ngày càng được nâng cao dù thơ liên tục bị phê phán. Và anh kết luận: Có cực đoan mới thành thơ và tính đa dạng bao giờ cũng có ích.
![]() |
Người phát biểu cuối cùng là nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Mặc dù anh là người không mấy tin vào tính hiệu quả của nội dung buổi tọa đàm, nhưng anh đã đến với một bài phát biểu viết hẳn hoi như một bản tham luận có thể in riêng trên báo. Theo anh Tạo làm thơ rất khó, và không nên xếp thang bậc các nhà thơ bởi vì khẩu vị mỗi người mỗi khác, người thích kiểu này, người muốn loại kia và người ta chỉ có thể thích ai gần với mình mà thôi. Rồi anh quan niệm: Thơ như những con sóng thủy tinh vỗ ở một cõi khác, đó là trạng thái thăng hoa không bình thường - trạng thái - "tâm thần". Bởi vậy, anh tâm đắc với ý kiến của G.Lorca: thơ gần với máu hơn với mực, hay nói một cách khác, thơ là tâm huyết. Về tình hình thơ ca hiện nay anh Tạo mượn cách nói của các nhà kinh tế trong cuộc vận động hàng tây hàng ta, đò nội, đò ngoại, để đặt vấn đề: Thơ đúng hướng nội hay hướng ngoại, bung ra hay bung vô? Anh Tạo cho rằng tình hình thơ ca xem ra như có vẻ được mùa, nhưng ngó lại thì cái đậu thì ít, cái bay đi thì nhiều, diện mạo giống như tấm ảnh bị phóng nhiễu...
Cuối cùng anh Nguyễn Trọng Tạo bày tỏ ý kiến về kết quả cuộc thi thơ vừa được công bố của Tuần báo Văn Nghệ. Anh nói: không biết đáng mừng hay đáng lo!. Trước đó, trong phát biểu của mình, anh Nguyễn Khắc Thạch cũng đã chỉ trích kết quả cuộc thi và đi đến kết luận: "Đây là một giải thơ không có tác phẩm và tác giả".
Mặc dù còn nhiều ý kiến chưa kịp phát biểu, nhưng cuộc tọa đàm đã phải kết thúc vì kim đồng hồ đã vượt qua con số 5, trời lại lắc rắc mưa lạnh báo hiệu sắp có áp thấp nhiệt đới.
Đáng lẽ bài viết có thể kết thúc ở đây nhưng người ghi vẫn tiếc một chi tiết hi hữu: khi mọi người đang lục tục ra về thì có một tác giả hớt ha hớt hãi chạy tới... dự tọa đàm. Tác giả đó là anh Trần Vàng Sao, một người mà chắc không cần ghi chú gì thêm. Hóa ra chiều nay anh bị bất ngờ kéo về dự một cuộc họp quan trọng tại làng Dương Nỗ, liên quan đến vấn đề Nhà lưu niệm Bác Hồ ở đây (nhà này nguyên là nhà của gia đình vợ anh Trần Vàng Sao). Họp xong anh ba chân bốn cẳng đạp 10 cây số và mong sao còn kịp lên tiếng về Thơ của mình! Âu là cái số không may vẫn tiếp tục đeo đuổi nhà thơ lận đận!
N.T.N
(lược ghi)
(TCSH46/04-1991)
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.
PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.
NHỤY NGUYÊN
Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.
QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.
NHỤY NGUYÊN
(Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)
TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…
BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.
HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.
VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!
MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.
DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.
LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.
FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.
TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.