Tam Giang giai thoại: Bắn hạ sóng dữ, cứu chúa 'hóa thần'

08:55 23/10/2015

Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (Thừa Thiên-Huế) không chỉ là hệ thủy vực nước lợ lớn nhất Đông Nam Á mà nơi đây còn có những câu chuyện đầy kỳ bí được ghi chép hoặc truyền miệng từ xa xưa.

Lễ tế miếu Bà Tơ được tổ chức long trọng - Ảnh: Minh Ngọc

Tam Giang luôn là nỗi khiếp sợ của người xưa, gắn liền với câu ca dao nổi tiếng được lưu truyền: Thương em anh cũng muốn vô/Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang...
Sách Ðại Nam nhất thống chí chép: “Phá Tam Giang ở địa phận hai huyện Phong Điền và Quảng Điền, trước gọi biển cạn (Hạt Hải), năm Minh Mệnh thứ 2 đổi tên như hiện nay, nam bắc dài 30 dặm, đông và tây rộng chừng 6 dặm. Từ hạ lưu sông Lương Điền chảy xuống phá, về phía tây nam có dòng nước đổ vào một là cửa sông Tả, một là cửa sông Trung, một là cửa sông Hữu. Mỗi dòng đều chảy chừng 2, 3 dặm mà vào nên gọi là phá Tam Giang, lại chảy về phía đông nam 25 dặm, mà hợp với sông Hương để ra cửa Thuận An. Nước sông sâu rộng, thường có sóng gió bất trắc, thuyền đi nên đề phòng”.
Sóng Ông, sóng Bà, sóng Con
Sóng dữ trên phá từng là nỗi ám ảnh của nhiều cư dân vùng đầm phá. Chính vì thế, nhiều câu chuyện kỳ bí được lưu truyền lại cho đến ngày nay. Ông Trần Hải (44 tuổi, trú thôn 9, xã Điền Hòa, H.Phong Điền) kể: “Ngày xưa, không ít người bỏ mạng vì bị sóng nhấn chìm. Vùng này có 3 sóng dữ gồm sóng Ông, sóng Bà và sóng Con. Ngư dân trên phá sợ nhất là khi các sóng thần nổi giận. Nhưng giờ hết rồi, nghe nói có ông quan nào đó trị...”.
Vị quan “trị” sóng dữ Tam Giang là ông Nguyễn Khoa Đăng, Nội tán kiêm Án sát sứ, Tổng tri quân quốc trọng sự diên tường hầu thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725). Tương truyền, Nguyễn Khoa Đăng có tài xử kiện, đủ trí xét ngay gian, cho nên được người đời gọi là “Bao công”. Những chuyện như ông tìm ra được kẻ trộm dưa hấu, trộm dầu và trộm giấy... đến nay hãy còn truyền tụng. Chuyện trừ sóng dữ ở phá Tam Giang được lưu truyền lại rất ly kỳ rằng sóng dữ đã bị ông bắn hạ, sau khi bắn, một luồng đỏ như máu từ từ loang ra trên mặt phá...
Theo sách Truyện kể dân gian Thừa Thiên-Huế do GS Tôn Thất Bình chủ biên, Nguyễn Khoa Đăng loan tin sẽ cho quân dùng súng thần công bắn sóng thần trừ họa. Đến ngày đã định, ông đem súng hướng ra phá, ra lệnh bắn sóng... Nhưng thực ra, trước đó ông đã sai người đào mở rộng cửa phá, cho nên sóng dữ mới không còn. Vì thế, dân gian ngày nay vẫn còn câu ca: Thương em anh cũng muốn vô/Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang/Phá Tam Giang ngày rày đã cạn/Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm. Công trị sóng dữ của Nguyễn Khoa Đăng đã được sách Ðại Nam nhất thống chí ghi nhận: “Hồi đầu bản triều, nội tán Nguyễn Khoa Đăng đào đường kênh khác thông sông cái để giảm bớt thế nước, từ đấy sóng bớt dần, thuyền đi thuận lợi”.
Người đàn bà đánh cá “hóa thần”
Về H.Quảng Điền (Thừa Thiên-Huế) hỏi Bà Tơ hầu như ai cũng biết. Miếu Bà Tơ ngày nay còn ở làng Bác Vọng, xã Quảng Phú.
Theo ông Đặng Minh Phú, trưởng thôn Bác Vọng Đông, giai thoại xưa kể rằng trong một trận thủy chiến trên phá Tam Giang hơn 400 năm trước, chúa Nguyễn Hoàng cùng đoàn tùy tùng bị truy đuổi. Quân lính đang ra sức chèo thuyền thì bị đứt quai chèo. Tình thế nguy cấp cận kề. May thay, ngư dân Trần Thị Tơ, người làng Bác Vọng, đang làm nghề cá trên phá đã nhanh chóng dâng mớ tơ (còn gọi là tay lưới) giúp quân chúa Nguyễn bện lại tay chèo. Nhờ đó, chúa cùng đoàn tùy tùng thoát hiểm.
Cảm kích ơn cứu mạng, chúa Nguyễn Hoàng ban cho bà một ân huệ. Trước sự chứng kiến của đông đảo bề tôi cùng dân chúng, chúa Nguyễn cho thả bã mía trên sông Bồ, phía trước làng Bác Vọng. Bã mía xuôi theo dòng đến đâu thì bà Tơ được quyền cai quản đến đó. Bã mía trôi theo dòng nước chảy, rồi dạt vào bờ và đó được xác định là nơi xa nhất trong giang phận, được quyền canh tác và khai phá của làng Bác Vọng. Không biết thực hư của câu chuyện ra sao, chỉ biết rằng cư dân làng Bác Vọng có quyền canh phá và khai thác ít nhất từ đầm Hà Lạc ở phía thượng nguồn phá Tam Giang (thôn Hà Lạc, xã Quảng Lợi) cho đến vùng “trộ bã mía” ở khu vực giữa phá Tam Giang (nay thuộc địa phận thôn Mai Dương, xã Quảng Phước). Tại miếu thờ Bà Tơ vẫn còn hai câu đối nói rõ về công lao của bà: Mặt nước hưởng nhờ ơn vũ lộ/Dây tơ cứu khỏi trận phong ba.
Về sau, khi Bà Tơ mất, chúa Nguyễn cho xây miếu thờ. Từ đó đến nay, người dân Quảng Điền xem bà như thần chuyên phù trợ vượt qua hiểm nguy mỗi khi có việc ra biển. Tưởng nhớ công lao của người đàn bà huyền thoại, cả trên sông Bồ lẫn phá Tam Giang, dân làng Bác Vọng vẫn tổ chức cúng tế thường niên vào dịp Minh niên nhằm ngày 11 và ngày 12 tháng giêng, và húy nhật nhằm ngày 18 tháng 5 âm lịch. Lễ tế miếu Bà Tơ đã được đưa vào chương trình của lễ hội Sóng nước Tam Giang.
Theo TNO
 
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Lăng mộ của chúa Nguyễn Phúc Tần còn được gọi là lăng Chín Chậu, có nhiều nét độc đáo so với lăng mộ các chúa Nguyễn khác.

  • BAVH - là các chữ viết tắt của bộ tập san bằng tiếng Pháp với nhan đề: “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (Tập san của những người bạn Cố đô Huế”. Trước đây tập san này có tên gọi là “Đô thành Hiếu cổ”. Bộ tập san này (sau này người ta gọi là tạp chí) được xuất bản và lưu hành tại Việt Nam và Pháp từ năm 1914 đến năm 1944. Thế là tròn 100 năm ra đời bộ tạp chí danh tiếng này.

  • Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa, có một vị thần gánh đất để ngăn sông đắp núi. Một hôm vị thần đó đang gánh đất thì bỗng nhiên đòn gánh bị gãy làm hai, nên bây giờ đã để lại hai quả đất khổng lồ khoảng cách nhau hơn một km đó chính là núi Linh thái và núi Túy Vân ngày nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

  • Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình. 

  • Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...

  • Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.

  • Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam. 

  • Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía Nam). Đây là con đèo hiểm trở nhất dọc tuyến đường bắc nam, do có vị trí địa lý hiểm yếu, bởi kiến tạo địa chất của dãy núi cắt ngang đất nước, từ biên giới phía Tây tới sát biển Đông.

  • Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.

  • Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.

  • Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.

  • Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...

  • Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho  du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.

  • Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.

  • Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).

  • Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.

  • Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.

  • Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...

  • Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.