Tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du

15:01 23/10/2020

MAI VĂN HOAN    

Trải qua hàng nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, họ tìm mọi cách đồng hóa dân tộc ta nhưng bất thành. Chúng ta có chịu ảnh hưởng về tư tưởng, về giáo dục, về văn hóa, nghệ thuật… của họ nhưng dứt khoát không bị đồng hóa.

Ảnh: internet

Riêng về lĩnh vực ngôn ngữ không những không bị đồng hóa mà cha ông ta còn Việt hóa một số lượng khá lớn từ gốc Hán qua hình thức phiên âm và cùng với việc những từ thuần Việt không những không mai một mà vẫn phát triển theo thời gian đã làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn, tinh tế hơn, linh hoạt hơn, đa nghĩa hơn, biểu cảm hơn. Một trong những người góp công lớn cho sự phát triển tiếng Việt chính là Đại thi hào Nguyễn Du. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình khẳng định: Nguyễn Du là bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ. Đi sâu tìm hiểu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào điều đó.

Cụ Đào Duy Anh trong công trình Khảo luận về Kim Vân Kiều có một nhận xét rất xác đáng: “Thời Lê mạt, ta có những tác phẩm có giá trị như Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Phan Trần truyện, Hoa Tiên ký… viết bằng quốc âm, nhưng lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức”. Trong khi các tác phẩm quốc âm mà cụ Đào Duy Anh kể trên chỉ sử dụng khoảng 40%, thì Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng trên 70% từ thuần Việt. Nhưng số lượng từ dùng nhiều hay ít chưa nói lên điều gì mà cơ bản là việc sử dụng những từ ngữ đó như thế nào vào công việc sáng tác. Người ta đã nói nhiều về cách dùng từ láy, hư từ, thán từ, từ đồng âm, từ đồng nghĩa, hoán dụ, ẩn dụ, nhân hóa, cường điệu, song đối, cách chơi chữ hết sức tài tình của Nguyễn Du… Nhiều người cho rằng: Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt. Đắt vì đôi khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người (Ghế trên ngồi tót sổ sàng; Thoắt trông nhờn nhợt màu da; Tường đông đã thấy Sở Khanh lẻn vào). Gần đây, khi viết về chữ “tôi” trong Truyện Kiều, tôi đã tiến hành khảo sát, đối chiếu, so sánh và đi đến kết luận: Riêng với việc sử dụng chữ “tôi” không thôi, Nguyễn Du cũng là bậc kỳ tài, là người đi trước thời đại. Bởi vì vào thời đó, những tác phẩm viết bằng chữ Nôm có giá trị như Chinh phụ ngâm (bản dịch thơ), Cung oán ngâm khúc, Phan Trần, Hoa Tiên… chưa có tác phẩm nào sử dụng chữ “tôi” theo nghĩa đại từ nhân xưng như Nguyễn Du cả. Có người đã bàn đến chữ “mùi” trong câu: Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình nhưng chỉ loanh quanh giải thích chữ “mùi” đi với chữ “hương” để tạo ra mùi hương thơm tho, thanh khiết mà quên mất chữ “mùi” ở câu thơ này được ghép với chữ “nhớ”. Nguyễn Du là người đầu tiên mang đến cho ngôn ngữ Việt Nam cái mùi hết sức khác lạ: “mùi nhớ”. Với Nguyễn Du thì nỗi nhớ người yêu cũng có hương vị riêng. Đây là một cách nói hết sức hiện đại. Với cách dùng từ hiện đại kiểu như “mùi nhớ”, “lá gió”, “cành chim” (Dập dìu lá gió, cành chim), “ngậm gương” (Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương)… đại thi hào đã góp phần đưa ngôn ngữ dân tộc lên một tầm cao mới. Đó chính là điều mà “các hạng thượng lưu trí thức” đương thời hết sức nể phục, mặc dù Nguyễn Du, sử dụng những từ ngữ mà các bậc ấy vẫn cho là “nôm na, mách qué”. Riêng gần 30% từ gốc Hán được sử dụng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng lựa chọn những từ đã được Việt hóa. Đó là những từ người “bình dân” vẫn dùng trong giao tiếp hàng ngày, như: xuân, hoa, hồn, tâm, tài, mệnh… nên họ dễ tiếp nhận. Trong đó, các từ “hoa”, từ “xuân” được Nguyễn Du dùng khá nhiều lần (từ hoa 132 lần, từ xuân 55 lần). Với từ “hoa”: khi thì nhà thơ dùng để gọi các loại hoa theo nghĩa gốc thông thường (Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông), khi thì nhà thơ dùng để ám chỉ người đàn bà đài các nhưng đã hết thời (Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa), khi thì nhà thơ dùng để chỉ người tình cũ (Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình)… Với từ “xuân”: khi thì nhà thơ dùng nghĩa gốc (Sầu dài, ngày ngắn đông đà sang xuân), khi thì nhà thơ dùng để chỉ tuổi trẻ (Ngày xuân em hãy còn dài), khi thì nhà thơ dùng để chỉ người đẹp (Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai)… Điều này thì đã có một số người chịu khó thống kê và chú giải. Chỉ tiếc là họ chưa chỉ ra được trường hợp nào là sáng tạo độc đáo của Đại thi hào. Chữ “hoa” trong các câu: Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông; Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ; Thềm hoa khách đã trở hài; Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên; Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng; Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền… theo tôi, không cần phải liệt kê, chú giải vì chẳng có gì đặc biệt. Chữ “hoa” trong các câu: Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa; Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn; Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình; Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa… mới là những câu có cái để bình chú. Vì chữ “hoa” ở đây đã được Nguyễn Du dùng với nghĩa ẩn dụ. Riêng tôi, tôi phục nhất cách ghép từ “lệ hoa” trong câu: Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng. “Thềm hoa” thì cũng như “đuốc hoa”, “bút hoa”, “kiệu hoa”… là cách lắp ghép thông thường. “Lệ hoa” mới là cách lắp ghép cao thủ của Nguyễn Du. Tả nàng Kiều khóc một mình trong đêm vắng không khó lắm (Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu). Tả nàng Kiều khóc nhưng phải giữ được vẻ đẹp để Mã Giám Sinh “cân sắc, cân tài” trong hoàn cảnh trớ trêu này mới khó. Cảnh ngộ của Kiều bấy giờ chẳng khác gì Kép Tư Bền trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Lòng Kiều đang tan nát nhưng ngoài mặt phải cố giữ cho được sắc đẹp. “Nét buồn” cũng phải như hoa cúc, “điệu gầy” cũng phải như nhành mai. Cho nên nước mắt của nàng Kiều không là “giọt lệ” hay “giọt hồng” mà là “lệ hoa”. Đại thi hào đã vượt qua cái khó đó một cách dễ dàng. Chữ nghĩa tự nó tìm đến với nhà thơ chứ không phải nhà thơ khổ công tìm kiếm. Với chữ “xuân” cũng tương tự như vậy. Chữ “xuân” trong các câu: Ngày xuân con én đưa thoi; Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân; Thưa hồng, rậm lục, đã chừng xuân qua… cũng không cần thiết phải liệt kê, chú giải làm gì. Cách dùng chữ “xuân” ở các câu: Mười phần xuân có gầy ba bốn phần; Chữ tình ngày một thêm xuân một ngày; Hoa Xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài… mới là những câu có cái để bình chú. Vì chữ “xuân” ở đây cũng đã được Nguyễn Du dùng với nghĩa ẩn dụ. Trong tất cả những chữ “xuân” mà Nguyễn Du dùng theo nghĩa ẩn dụ, có hai trường hợp tôi vô cùng tâm đắc. Trường hợp thứ nhất là câu nhà thơ mượn ý của Đỗ Mục trong bài Xích Bích hoài cổ để cho chàng Kim Trọng “tán” vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân trong lần đầu gặp gỡ: Một nền Đồng Tước khóa xuân hai kiều. Ở bài Xích Bích hoài cổ, Đỗ Mục viết: Đông phong bất dữ Chu Lang tiện/ Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều (Gió đông ví không thuận tiện cho Chu Du, thì cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước đã khóa chặt hai nàng Kiều). Mặc dù mượn ý thơ Đỗ Mục nhưng cách dùng từ “xuân” của Nguyễn Du có khác. Đỗ Mục tả cảnh xuân thâm nghiêm ở đền Đồng Tước, còn Nguyễn Du thì nói tuổi xuân của hai người đẹp đang bị “khóa” tại tư gia. Rõ ràng cách nói của Nguyễn Du đa nghĩa hơn, mới mẻ hơn, hiện đại hơn. Trường hợp thứ hai là khi diễn tả cái chết đột ngột của nàng Đạm Tiên, Nguyễn Du viết: Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. Thông thường người ta nói nửa chừng đứt gánh, cuộc vui mới được nửa chừng hoặc mới làm nửa chừng công việc… Đại thi hào là người đầu tiên ghép chữ “xuân” vào “nửa chừng” và tạo ra cách ngắt nhịp hết sức bất ngờ mới lạ đối với thể thơ lục bát 3 -1- 4: Nửa chừng xuân/ thoắt/ gãy cành thiên hương để diễn tả cái chết bất ngờ của cô gái trẻ đẹp và bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn của Vương Quan (cũng là của Nguyễn Du). Nhà văn Khái Hưng sau này đã mượn cách ghép từ “nửa chừng xuân” của Đại thi hào để làm tiêu đề cho cuốn tiểu thuyết từng rất “ăn khách” một thời. So với các từ “hoa”, “xuân” thì từ “hồn” ít được Nguyễn Du dùng hơn (chỉ 15 lần) nhưng cách sử dụng của ông cũng hết sức biến hóa, hết sức tài tình. Nguyên gốc chữ Hán từ “hồn” chủ yếu nói về con người. Theo quan niệm của người xưa thì con người ta có hai phần: phần xác và phần hồn. Khi chết thì hồn bay khỏi xác. Xác dần dần tan rữa còn hồn vẫn lẫn khuất đâu đó trong không gian. Sau này, từ “hồn” còn được dùng mở rộng hơn: sông, núi, đất đai, cây cỏ… cũng có hồn. Hồn vốn là danh từ nhưng trong giao tiếp, người Việt còn sử dụng hồn theo hướng chuyển loại từ, như: Anh ấy viết văn rất có hồn, giọng hát của cô ấy rất có hồn (hồn ở đây đã chuyển thành tính từ). Chữ “hồn” trong các câu: Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai; Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên; Nào hồn tinh vệ biết đâu mà lần; Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu… Nguyễn Du dùng với nghĩa thông thường, chỉ cần chú giải một vài điển tích, điển cố để người đọc “bình dân” hiểu là được. Cái độc đáo của chữ “hồn” được nhà thơ sử dụng trong các câu: Cạn lời hồn dứt máu say; Sinh càng nát ruột tan hồn; Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao… Hồn là một khái niệm trừu tượng, vào tay thiên tài Nguyễn Du trở nên hết sức cụ thể. Hồn “dứt” như con suối đứt mạch, hồn “tan” như chiếc bình tan vỡ, hồn không phải lìa khỏi xác mà lìa khỏi giấc chiêm bao. Hiếm thấy người nào có cách sử dụng từ “hồn” độc đáo như Nguyễn Du.  


Có thể dẫn ra rất nhiều trường hợp để chứng minh Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Chính nhờ cái tài sử dụng ngôn ngữ ấy mà tác phẩm Truyện Kiều được người đọc từ thế hệ này đến thệ hệ khác say mê, ngưỡng mộ. Và đó cũng là cơ sở để nhà văn Phạm Quỳnh khẳng định: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn!”.

Huế, tháng 5/2020
M.V.H  
(TCSH379/09-2020)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

  • ĐẶNG HUY GIANG

    Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.

  • Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

  • BÍCH THU
    (Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

    Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.

  • Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.

  • Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.