Tác dụng tích cực của cái “tiêu cực” trong tác phẩm văn nghệ

15:35 06/08/2010
Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.
Nhưng bàn đến vấn đề này, tôi cũng có chút phân vân. Nói đến văn nghệ là nói đến thẩm mỹ, nói về cái đẹp, là người cầm bút, sao anh cứ nhằm nhè vào cái tiêu cực, cái xấu? Và tôi băn khoăn ngay từ mấy chữ “đề tài chống tiêu cực” cả vì tính thời sự của vấn đề này nữa.

Từ năm 1962, trong lúc thư gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 3, BCH Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: “Văn nghệ phải là một vũ khí sắc bén, giúp cho chế độ ta, nhân dân ta đánh bại những tư tưởng thù địch, đẩy lùi những tư tưởng ích kỷ, lười biếng, ươn hèn, những thói tục xấu xa, giúp cho cái mới luôn luôn nảy nở và con người mới phát triển không ngừng… Nhân dân ta yêu cầu văn nghệ không chỉ biểu dương những ưu điểm và thắng lợi mà còn phải thẳng thắn phê bình những khuyết điểm và nhược điểm trên bước trưởng thành của cách mạng với một tinh thần xây dựng và một thái độ chân thành…”

Quan điểm này, trong hơn hai mươi năm qua, Đảng ta đã kiên trì nhắc nhở văn nghệ sĩ qua nhiều nghị quyết và chỉ thị về công tác văn nghệ. Vậy mà gần đây, một số cuốn sách phần nào thể hiện được quan điểm nói trên đã trở nên sự kiện nổi bật trong phong trào sáng tác; báo chí nối nhau ngợi khen cổ vũ, người đọc săn tìm như đối với một vật lạ rồi nhỏ to truyền tụng về sự táo bạo của nhà xuất bản, của tác giả đã dám đụng chạm đến “ông này bà kia”! Tại sao lại có tình hình đó? Tôi nghĩ có lẽ có hai nguyên nhân chính. Trước hết phải nói đến trách nhiệm của người cầm bút đã không làm tròn chức năng người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng. Đã mấy chục năm rồi Đảng nhắc nhở “văn nghệ phải là một vũ khí sắc bén”, nhưng mãi đến nay, một vài cuốn sách thật sự mang hơi thở cuộc đấu tranh chống “những tư tưởng ích kỷ, lười biếng, ươn hèn…” vẫn như là sản phẩm mới lạ, thì dù biện bạch bằng cách nào, những người cầm bút cũng phải gánh phần trách nhiệm.

Phần trách nhiệm còn lại tất nhiên thuộc về khách quan. Người cầm bút trong xã hội ta, do những cơ chế và những điều kiện hoạt động cụ thể, chịu sự chi phối và điều chỉnh của khá nhiều yếu tố chung quanh. Đáng kể nhất có lẽ là thói quen, là nếp nghĩ của không ít người chỉ ưa lối nói, lối viết một chiều tán dương thành tích và ưu điểm. Thói quen và nếp nghĩ ấy đi ngược đường lối của Đảng, chẳng ai công bố thành văn bản, vậy mà nhiều khi có uy lực như một luật lệ, khống chế sức chiến đấu của những cây bút chân chính. Đảng và nhân dân đòi hỏi văn nghệ phải là vũ khí sắc bén, nhưng uy lực của thói quen ấy lại nhằm gọt tròn tác phẩm để được êm thấm. Trong chiều hướng ấy, hễ có tác phẩm nào nói nhiều đến khó khăn và khuyết điểm, lên án những thói xấu của “ông này bà kia” thì bị coi là “không ổn - có vấn đề” thậm chí tác giả còn bị gây khó dễ trong cuộc sống riêng. Đó là trường hợp anh Mai Văn Tấn sau bài ký “Ở một hợp tác xã không tăm tiếng”. Cả đến cây bút nữ “hiền lành” Trần Thùy Mai với ý muốn tốt đẹp góp “một chút màu xanh” cho đời, cũng có người cho là “có vấn đề - chỉ toàn nói chuyện tiêu cực”, khi họ đọc chuyện của chị đăng trên tạp chí Sông Hương số 1. Tôi nghĩ đã đến lúc cần đổi mới chiều hướng dư luận, tạo nên một cách đánh giá tác phẩm ngược lại nếp nghĩ kể trên: cần phải coi là “có vấn đề”, thậm chí phải lên án những tác giả cho ra đời những tác phẩm viết về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta mà chỉ toàn nói những chuyện tốt đẹp, chẳng thấy bóng dáng một nhân vật tiêu cực nào. Cũng có người vin cớ “sợ kẻ địch lợi dụng” để tán đồng, cổ vũ cho lối viết tròn trĩnh ngọt ngào ấy; thực ra, những tác phẩm như thế đã làm lợi cho kẻ thù vì nó làm người ta dễ ngủ quên trên thắng lợi, lu mờ tinh thần cảnh giác trước cảnh bình yên giả tạo. Chúng ta đều biết rõ, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với đặc điểm lớn nhất là đi thẳng từ nền sản xuất nhỏ lên xã hội chủ nghĩa tất phải trải qua cuộc đấu tranh cực kỳ gay go và phức tạp. Văn nghệ phản ánh cuộc đấu tranh ấy, trên trang viết có hai mặt tốt - xấu, tích cực - tiêu cực là lẽ đương nhiên, là một điều tất nhiên vậy. Nó cũng đương nhiên như một trận đấu bóng không thể chỉ có cầu thủ một bên sân. Vì thế tôi nghĩ chẳng nên đặt tên gọi “đề tài chống tiêu cực”, dù việc phân chia đề tài trong văn nghệ chỉ là một quy ước tương đối mà thôi. Có thể nói với nguyên tắc phản ánh chân thật cuộc sống của chủ nghĩa hiện thực, không kể một vài thể loại và phong cách khai thác đề tài một cách riêng, thiên về vẻ đẹp, về chiều sâu lịch sử văn hoá (như trong bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng hạn), tất cả các đề tài công nghiệp nông nghiệp, giáo dục,… và cả đề tài chiến tranh cách mạng nữa cũng đều cần có nội dung “chống tiêu cực”. Tôi đã có vinh dự được sống nhiều năm ở những mũi nhọn của ngành giao thông vận tải, bên những đơn vị anh hùng trên đường Trường Sơn và tuyến lửa Quảng Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chính ở đó đã lộ mặt những kẻ hèn nhát, cơ hội, những tên ăn cắp và dối trá… Những tác phẩm đơn giản hóa cuộc sống, không thể hiện chân thật những khó khăn và thất bại, những cuộc đấu tranh gay go giữa địch - ta, giữa người tốt - kẻ xấu và trong mỗi con người, chẳng những không có sức hấp dẫn quần chúng - những người đọc, người xem từng trải hiểu biết tường tận sự thật và có trình độ thẩm mỹ ngày một cao - mà còn hạ thấp tầm vóc anh hùng sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Hiện nay, những biểu hiện tiêu cực kéo dài - như Báo cáo chính trị tại Đại hội 5 đã chỉ rõ, đang là vấn đề thời sự trong dư luận xã hội, nhưng coi đó cũng là “vấn đề thời sự” đối với hoạt động văn nghệ thì chưa hẳn đã thật đúng. Gần đây, sau khi công bố Nghị quyết 4 của Trung ương Đảng ta, ngày 29-6, báo Nhân dân đăng bài “Hậu quả sự dối trá” dịch từ báo Sự thật Liên Xô ngày 28-5-83 kể lại cuộc đấu tranh đã dẫn đến việc BCH Trung ương Đảng phải thi hành kỷ luật đến cả bí thư thành ủy, bí thư tỉnh ủy Xa-ra-tốp, cả một thứ trưởng và nhiều cán bộ quan trọng khác vì họ đã bao che cho một cán bộ thoái hóa. Hiện tượng tiêu cực ấy có khác gì ở ta (nếu không nói là nghiêm trọng hơn vì ở ta chưa công bố công khai một vụ nào như thế!) mặc dù xã hội Liên Xô phát triển vượt chúng ta cả một thời kỳ lịch sử hàng chục năm. Như thế có thể nói, chừng nào văn nghệ còn phản ánh cuộc sống trong sự vận động phát triển của nó, chừng đó văn nghệ còn đề cập đến những hiện tượng, những nhân vật tiêu cực. Nói cách khác, nội dung “chống tiêu cực” không chỉ mang tính thời sự mà có tính lâu dài, nếu không muốn nói là vĩnh cửu. Có ai dám đoán chắc con người ta mấy trăm, ngàn năm nữa sẽ trở nên hoàn thiện trăm phần trăm?

Cũng chính vì vậy, cùng với mong ước từ nay việc đề cập đến những mặt tiêu cực trong tác phẩm văn nghệ sẽ trở nên bình thường, tự nhiên như nó vốn có trong cuộc sống, tôi cũng mong muốn có sự bình đẳng và bình tĩnh nữa khi xem xét, đánh giá một tác phẩm có đụng đến chuyện tiêu cực. Tại sao chúng ta có thể bình tĩnh đọc bài báo “hậu quả sự dối trá”, nhưng lại xôn xao lên - thậm chí nghi ngờ cả thiện ý của tác giả khi có một bài ký có đôi đoạn đụng chạm đến một vị lãnh đạo cấp huyện? Văn nghệ là một vũ khí sắc bén và thật lợi hại, nhưng cách nhìn những sáng tác của đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng chúng ta như là những sản phẩm thường chứa những độc tố, như con dao hai lưỡi, với con mắt đề phòng cảnh giác, ít nhiều cũng làm nhụt chí “xung phong” của những cây bút đang muốn có chất “thép” trong sáng tác của mình. (Ở đây, tôi không kể đến những kẻ mượn cây bút để thực hiện mục đích xấu xa. Khi đó, họ đã tự vượt ra khỏi lĩnh vực văn nghệ, số phận họ thuộc về các cơ quan công an, tòa án). Chính vì ngại ngần trước những con mắt “cảnh giác” với tất cả tác phẩm văn nghệ, đã có không ít tác giả, tuy có thiện ý, đã phải xây dựng tác phẩm theo một cách bố trí nhân vật giống nhau - một lối mòn đáng chán nhưng tạo được thế “cân bằng” và người cầm bút được bằng yên! Với loại sáng tác đó, nếu đã có nhân vật giám đốc thoái hóa thì không cần xem tiếp cũng biết bí thư đảng ủy là người gương mẫu; hoặc nếu có gan phê phán tận bí thư huyện chẳng hạn thì bí thư tỉnh ủy ắt phải là nhân vật kiểu mẫu v.v… Nhưng cuộc sống thì lại muôn vẻ và như trường hợp bài “hậu quả sự dối trá” thì hàng loạt cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Thành ủy, Tỉnh ủy ở phía tiêu cực, lẽ phải lại thuộc về đảng bộ cấp dưới. Dù vậy - nếu không muốn nói là chính vì vậy, chính vì phản ánh chân thật cuộc sống, nên bài báo đã cho ta thấy rõ sức sống của Đảng, có sức kêu gọi con người đấu tranh cho lẽ phải, chân lý. Có thể nói đó chính là “cái đẹp” của những tác phẩm có đề cập đến hiện tượng và nhân vật tiêu cực.

Tuy vậy, tôi không nghĩ là cứ nhất thiết viết “tiêu cực” cho thật đậm mới là tác phẩm có tính hiện thực cao. Việc đưa mặt tiêu cực vào tác phẩm như thế nào cho có hiệu quả nghệ thuật là việc không dễ dàng. Tôi nghĩ người viết cần có sự hiểu biết thật sâu sắc hiện thực mình miêu tả để lựa chọn những gì có ý nghĩa, có tính điển hình, gắn với vấn đề mình đặt ra trong tác phẩm và đạt được mục đích giúp cho cái mới luôn nảy nở và con người mới phát triển không ngừng. Liều lượng mặt tiêu cực ít hay nhiều, nặng hay nhẹ, nhân vật tiêu cực là người có quyền cao chực trọng, hay chỉ là một nhân viên thường tùy thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn ấy. Người cầm bút có trách nhiệm, hiểu biết nghề nghiệp và chức năng của văn nghệ không thể tùy tiện tung mọi thứ tiêu cực vào tác phẩm chỉ để hả cơn bực giận của mình.

Cuối cùng, tôi xin được kể lại đôi điều về công việc của mình vì nó liên quan đến những ý kiến tôi vừa trình bày. Không phải bây giờ mà từ năm 1970, sau khi được dự lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam, trên cơ sở hiểu biết đường lối văn nghệ của Đảng được sâu sắc hơn, tôi đã có ý định đưa không ít nhân vật tiêu cực và đề cập đến những vấn đề dễ “đụng chạm” như vấn đề tổ chức và cán bộ, cách đánh giá và sử dụng trí thức, sự bất lực của lớp cán bộ giàu nhiệt tình nhưng thiếu trình độ chuyên môn v.v… khi xây dựng bộ tiểu thuyết hai tập “Đường giáp mặt trận” và “Chỗ đứng người kỹ sư”. Hồi ấy, có người đã khuyên tôi “Đừng viết! Viết như thế dễ bị đánh lắm!” Nhưng tôi là một người trong cuộc, 15 năm sống trong ngành giao thông vận tải hẳn đã giúp tôi nhìn đúng vấn đề và cho tôi cái vốn để có thể lựa chọn những chất liệu có ích cho tác phẩm. Và tôi tin ở động cơ tốt đẹp, tin ở tấm lòng thành của mình. Hồi còn là một cán bộ kỹ thuật trên công trường, tôi đã hăng hái ghi tên “tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm” và tôi tự hào đã phấn đấu trở thành người lao động gương mẫu. Tôi yêu Đảng, yêu cuộc sống trên những công trường xây dựng với tình yêu trong trắng của thời thanh niên sôi nổi quãng đời đẹp nhất trong cuộc đời mình. Trên trang viết của tôi là cuộc sống ấy, tình yêu ấy ; cho dù là khi tôi viết về một cán bộ kỹ thuật từng được tín nhiệm cử vào Thường vụ Đoàn, vào chi ủy, nhưng vì ham chức tước, địa vị đã thành một kẻ cơ hội thoái hóa, hay khi viết về một cán bộ Cục hèn nhát, chỉ muốn an phận, một bí thư đảng ủy vì không hiểu biết kỹ thuật mà lại thừa hăng hái đã có những quyết định sai trái, thậm chí đã gây ra tại nạn lao động v.v… thì cũng vẫn là tình yêu cao đẹp ấy đã thôi thúc ngòi bút của tôi. Có lẽ nhờ vậy mà khi hai tập tiểu thuyết ra đời, dù còn nhiều vụng dại về nghề nghiệp, các báo Nhân dân, Văn nghệ, Lao động … đã nhiệt tình đăng bài động viên cổ vũ, đánh giá những trang viết của tôi “có cách nhìn nhận lý giải vấn đề không nông cạn, sáo mòn…”. Tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư” đã được Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải trong dịp tổng kết sáng tác văn học đề tài công nhân 5 năm (1976-1980) và gần đây tôi được biết cuốn “Đường giáp mặt trận” sắp được tái bản.

Đối với người viết, việc kể lể đôi chút thành tựu của mình cũng dễ mang tiếng là không khiêm tốn; tôi cũng tự biết 2 cuốn sách của mình vẫn còn có chỗ đơn giản, thậm chí còn chịu ảnh hưởng xu hướng “gọt tròn” tác phẩm, nhưng từ những gì 2 cuốn sách đó đã đạt được, tôi đã nhận thức rõ hơn con đường đúng đắn của người cầm bút khi đứng trước những hiện tượng tiêu cực và những vấn đề phức tạp trong cuộc sống hiện nay: Tác phẩm muốn đề cập đến nhân vật tiêu cực thì tác giả càng phải là người tích cực; cái tiêu cực chỉ đáng được đưa vào tác phẩm khi nó có tác dụng tích cực. Như thế, màu đen, cái xấu hiện ra trong tác phẩm chỉ càng giúp rọi sáng tâm hồn người đọc, khơi gợi những cảm xúc thẩm mỹ tốt đẹp và kêu gọi con người hành động sáng tạo. Như thế, tác phẩm văn nghệ của chúng ta mới là vũ khí sắc bén của Đảng của nhân dân.

8-1983
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(3/10-83)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)

  • LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

  • THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

  • TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?

  • NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...

  • TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

  • HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

  • TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...

  • TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

  • PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.