NHÂN KỶ NIỆM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7/2013
HỒNG NHU
Bút ký
Di tích sân bay Tà Cơn (Nhà trưng bày và bãi trực thăng) - Ảnh: internet
Một ngày tuần cuối của tháng tư, nói về âm lịch là tháng ba, đoàn Nhà văn Thừa Thiên Huế lên đường bằng xe ô tô ra thăm tỉnh Quảng Trị sau khi đã khai mạc Trại sáng tác Văn học Biển đảo Quảng Trị - Cồn Cỏ năm 2013 từ 24/4 đến 4/05 ở Huế.
Khoảng hơn một tiếng đồng hồ, chúng tôi đã có mặt ở thành phố Đông Hà. Không hề dừng lại ở đây, xe chạy luôn lên Khe Sanh huyện Hướng Hóa. Gần tám chín chục cây số, dưới nhiệt độ chừng ba mươi lăm độ C, chúng tôi có mặt ở ngay Làng Vây và di tích Sân bay Tà Cơn mấy chục năm về trước 1968 - 1971.
Tà Cơn ở miền núi, rừng đồi nối nhau nằm dài cả trên sự khốc liệt của đất đỏ, nước non khô cạn. Nếu tính diện tích của sân bay, mấy anh trực ở đây công bố là 200 héc ta, đường bằng khoảng ngắn chỉ là 1.200m dài: đây là sân bay trực thăng của quân đội Mỹ mấy chục năm trước. Họ đã thua ta tan tác, chạy mất tăm từ đó. Tọa độ pháo binh của ta đã “tiễn đưa” quân Mỹ một cách ngon lành. Những cổ vật để lại trước mắt mọi người dân quần chúng, kể cả quốc tế. Ai muốn vào thăm cứ thoải mái đến nơi, chẳng ai bị ngăn cách.
Tôi đi bộ nhanh vào trước, làm cho cả đoàn nhà văn mười người tuổi tác còn thấp hơn đi sau tôi; sự thua kém vui này của các bạn đồng nghiệp Huế nổ ra một trận cười hoan hô. Tôi bỏ qua chiếc hầm trú ẩn của Mỹ quá chắc chắn còn nguyên, gồm những bao bì đất cát bên trong, bên ngoài là bao vải ni lông gần như còn khá mới, mặc kệ cho bao nhiêu trận trời mưa to nhỏ dội xuống. Ở ngoài chợ các nơi ở thành phố Huế, Hà Nội, Sài Gòn tất cả bao vải ni lông ở đây đều không có mà bán cho dân về dùng ở nhà, ở phường xóm thôn.
Tôi dở sổ sách ra ghi chép luôn sát bên cạnh chiếc trực thăng UH - 1H. Số 83 ghi ở trên đầu, chiều cao 5,5m, chiều dài 1l,34m. Màu xanh đậm khá đẹp của trực thăng bỗng dưng được một bầy chim sẻ sà tới đậu khắp trên lưng trên đuôi của nó. Chim sẻ này khá quen thân ở nông thôn, có thể đậu một con trên vai tôi. Sự thân ái con người của chim sẻ mà!
Tôi giơ tay như tạm biệt đàn sẻ, bước tới phía Đông Nam sát sạt bên chiếc trực thăng thứ 2. Chiếc này khác chiếc nọ. Gần như không có đuôi, chỉ vuông vắn tròn trịa đằng sau. Các cánh quay khi bay như mới làm vậy, không hề bị xây xát một tí. Nhưng không thấy chim sẻ sà tới như ở chiếc trực thăng số 1 kia. Tôi thấy chiếc trực thăng số 2 này chỉ cô đơn một mình. Tôi liếc mắt rất sâu nhìn ngó những tấm cửa sổ nhỏ hai bên thân của chiếc trực thăng này. Họ để cho các lính xe tăng ngồi ở trong có thể nhìn xét ra ngoài trong lúc đang bay. Thật là lạ! Sở dĩ không có đuôi mà chỉ có những móc lớn ở dưới bụng, để mếc vào đó chiếc xe tăng sẽ sà xuống đất mà hoạt động. Quân Mỹ nghĩ vậy mà làm như vậy những năm qua. Số hiệu trên đầu trực thăng là 025, trên thân đằng sau là 8025 dưới hàng chữ US Army.
Cách xa hơn vài trăm mét về phía Đông mấy chiếc trực thăng này là chiếc máy bay loại lớn hơn, chuyên chở những vật dụng hàng hóa dùng cho cuộc sống của đội quân Mỹ, thực phẩm đồ ăn thức uống, và cả quần áo bên ngoài, bên trong kể cả những đồ lót....
Cách trên trời xuống đất của những trực thăng quân sự này ở Tà Cơn là cách “bung dù” đằng sau. Bởi vì đường băng ngắn, rõ ràng. Bị quân ta săn bắn bằng pháo binh, đội quân Mỹ không xuống đất được, họ chỉ ném xuống đất những gì cần ném. Và chuồn ngay lập tức, vội vàng...
![]() |
Nhà văn Hồng Nhu và đôi trai gái người Mỹ |
Chúng tôi rời di tích sân bay để ra cổng. Đùng một cái, một đôi trai gái xộc tới, nhẹ nhàng. Cả đoàn ra cổng ngồi đợi tôi khi thấy tôi xuất hiện là lạ “Hê lô!” dừng đôi trai gái lại vì họ là người Mỹ. Rất tin mình đoán đúng, bởi vì đôi trai gái vừa vào xem xong rồi, tôi nói với hai đứa như hàng con cháu tôi, rất nhanh và hay. Cô gái cúi đầu nhẹ nhõm, dễ thương. Chàng trai trẻ măng quàng tay ôm tôi từ sau lưng như đối với bác, chú, rồi cười phấn chấn và lãng mạn. Thấy cảnh này, đoàn nhà văn Huế chạy tới, đưa khá nhiều máy chụp ảnh lên. Một hai ba... xong rồi! Đôi trai gái chào chúng tôi, từ từ bước lên xe du lịch con đến đón họ.
Chúng tôi sau khi lên Làng Vây hồi xưa nay đã quá vắng lặng, và không còn người dân tiếng tăm nào cắm rễ ở đây nữa để tiếp tục trò chuyện. Tôi nghĩ bụng rằng vào một dịp khác để tới làng văn hóa nay là Hòa Thành ngoài phố. Đoàn sẽ trở về Hotel Tùng Việt, nơi Ban Chấp hành Hội Nhà văn tỉnh đã đặt chỗ trước rồi. Sẽ ăn tối ở Tùng Việt vào lúc sáu giờ chiều. Lúc này mới gần một giờ chiều, chưa ăn trưa, chúng tôi sà vào một quán ăn cạnh bên đường quan. Vừa ăn tôi vừa kể chuyện đôi trai gái Mỹ cho cả đoàn nghe. Chàng trai to cao, da rất trắng, mặt rất cân đối, đẹp trai vào loại nhất nhì. Cô gái tóc như mây, mắt xanh rất tuyệt. Mặt mày vừa trang trọng vừa như có tài danh; tôi sực nhớ đến Truyện Kiều, có thể so sánh với chị em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du ở Việt Nam mình: “Vân vừa trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da/ Kiều càng sắc sảo mặn mà/ So bề tài sắc lại là phần hơn/ Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh/ Một hai nghiêng nước nghiêng thành...”. Cô gái này chẳng biết là vợ hay bồ của chàng trai. Bố của chàng mất đã lâu ở bên nước. Ông ấy chính là phi công lái trực thăng ở ngay Tà Cơn này. Trong gia đình ông chưa có một ai qua đây. Chàng trai là con trai út của ông, người đầu tiên tốt đẹp sang Việt Nam lần này. Chàng đã tốt nghiệp thạc sĩ ngành Y tế, giờ đây đang làm luận án tiến sĩ. Hai năm nữa chàng mới bảo vệ luận án. Ở nhà bên đó, còn người mẹ chàng tuổi đã cao nhưng rất thọ. Tất cả tiền nong qua Việt Nam lần này, cô gái đó của cháu - chàng trai nói với tôi - bỏ ra trọn vẹn. Như vậy, tôi gật đầu xác nhận cô bé đó là bồ của chàng trai, hơn nữa là vợ chưa cưới của chàng.
Mấy bạn nhà văn nhà thơ trong đoàn hỏi tôi tên thật của chàng trai Mỹ. Tôi ngần ngại một lát, rồi nói:
- Nghe hắn xướng một cú: “Van Persie!” Rồi sau, một cú tiếp: “Gibs!”.
Tôi giải thích cho các bạn mình hiểu rằng: Thôi kệ! có lẽ chàng trai trẻ Mỹ hô tên bản thân không đúng, không gian dối vì vui vẻ, vì muốn trùng tên; vì hắn mê thích đội bóng đá vô địch năm nay ở nước Anh là Manchester United trước cả 4 trận đấu nữa. Hai tên tuổi của họ là hai cầu thủ trứ danh: Persi và Gibs. Hắn tự mình nghĩ rằng mình là một công dân Mỹ quốc vô cùng bái phục dân tộc Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị đã chiến thắng vô cùng khốc liệt, vô cùng vinh quang ở Tà Cơn mấy chục năm trước đây! Chàng trai kể riêng cho tôi nghe câu chuyện mà người phi công trực thăng là bố đẻ của chàng đã kể lại về chiến công của quân dân Việt Nam ở sân bay Tà Cơn cùng ở Làng Vây nữa, cho cả gia đình của ông nghe ròng rã cả bao nhiêu năm đối với cả dân nước Mỹ; trước khi ông trở về nằm dưới nấm mồ của chính ông ở đất nước Mỹ.
Cảnh đẹp của Tà Cơn ngày hôm nay càng đẹp càng huy hoàng vì núi rừng vì đường sá, cầu cống, công trình hiện đại..., cả những con chim và cả những Con Người.
27/4/2013
H.N
(SH293/07-13)
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.