Nhà văn Konstantin Paustovsky - Ảnh: sovlit.com
Nguyên soái này còn trẻ. Mái tóc điểm bạc và vết sẹo trên má làm cho khuôn mặt ông có một sức hấp dẫn đặc biệt. Khuôn mặt ấy sạm đen vì những mất mát và những cuộc hành trình. Bọn lính yêu mến nguyên soái, ông chia sẻ với họ nỗi cơ cực của chiến tranh. Ông thường ngủ trên sàn cạnh đống lửa, cuộn mình trong áo khoác và thức dậy khi có hiệu kèn đồng khàn khàn. Ông uống rượu cùng với lính và mang trên người bộ quân phục đã sờn phủ đầy bụi. Ông chẳng thấy và chẳng biết gì cả ngoài những cuộc hành quân và chiến trận gian khổ. Ông chưa bao giờ nghiêng mình khỏi yên ngựa và hỏi một người nông dân xem đám cỏ dưới chân ngựa gọi là gì, cũng chưa bao giờ tìm hiểu tiếng tăm của những thành phố mà quân lính của ông đánh chiếm vì vinh quang của nước Pháp. Chiến tranh liên miên đã dạy ông biết im lặng, quên đi cuộc sống riêng của mình. Một lần vào mùa đông, đoàn kỵ binh của nguyên soái đang đóng ở Lông-bác-đi nhận được lệnh hành quân ngay tới nước Đức để hợp với đại quân. Đến ngày thứ mười hai, đoàn quân dừng lại ngủ đêm ở một thành phố nhỏ nước Đức. Giữa đêm khuya những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng ánh lên. Rừng đêm trải dài xung quanh và chỉ có một vài ngôi sao là đang lấp lánh trên bầu trời giữa sự tịch mịch của vạn vật. Nguyên soái nghỉ lại ở một khách sạn. Sau bữa ăn tối thịnh soạn, ông ngồi cạnh lò sưởi trong căn phòng nhỏ và cho cận vệ nghỉ. Ông đang mệt và muốn được ở một mình. Cái im lặng của thành phố nhỏ ngập những tuyết này gợi cho ông nhớ tới lúc thì thời thơ ấu, lúc thì giấc mơ vừa qua, mà có lẽ ông cũng chưa từng có. Nguyên soái hiểu rằng ngày mai thống chế sẽ đánh một trận quyết định và an ủi mình rằng cái mong muốn yên tĩnh lúc này là cần thiết cho ông, một nguyên soái, như một phút nghỉ ngơi trước trận tấn công dồn dập vó ngựa. Lửa làm cho nhiều người thẩn thờ. Nguyên soái mải mê nhìn những thanh củi đang cháy trong lò sưởi, không để ý rằng một người có tuổi, khuôn mặt gầy gò đã bước vào phòng. Người lạ mặt mặc một chiếc áo đuôi tôm màu xanh. Ông ta bước lại gần lò sưởi và bắt đầu hơ hai bàn tay bị cóng. Nguyên soái ngẩng đầu lên và khó chịu hỏi: - Ngài là ai, thưa ngài? Tại sao ngài lại lẳng lặng vào đây thế này? - Tôi là nhạc sĩ Ba-um-vây, - người lạ mặt trả lời - Tôi đã thận trọng đi vào như vậy bởi vì bỗng dưng tôi muốn đi lại trong cái đêm mùa đông này mà không gây ra tiếng động nào. Khuôn mặt và giọng nói của nhạc sĩ gây được cảm tình. Sau khi ngẫm nghĩ, nguyên soái nói: - Ngồi sưởi đi ông. Phải công nhận là ta hiếm có những buổi tối yên tĩnh như thế này trong đời. Ta vui lòng được tiếp chuyện ông. - Xin cảm ơn ngài, - nhạc sĩ trả lời, - nhưng nếu như ngài cho phép thì tốt hơn là tôi sẽ ngồi vào đàn và bắt đầu chơi. Suốt hai giờ rồi tôi mê mải với một chủ đề âm nhạc. Tôi cần phải thử nó mà ở phòng tôi trên kia lại không có đàn dương cầm. - Cũng được… - Nguyên soái trả lời - mặc dù sự yên tĩnh của đêm nay còn hơn tất cả những âm thanh thần tiên nhất. Ba-um-vây ngồi vào đàn và chơi vừa đủ nghe. Nguyên soái cảm thấy rằng quanh thành phố nhỏ này vang lên tiếng tuyết nhẹ đêm khuya đang rơi rơi, cảm thấy mùa đông đang hát, những cành dẻ phủ đầy tuyết đang hát và thậm chí cả ngọn lửa trong lò sưởi cũng đang kêu leng keng. Nguyên soái cau mày nhìn những thanh củi và nhận ra rằng không phải ngọn lửa mà là những cái đinh thúc ngựa trên giày của mình đang kêu leng keng. - Ta đã cảm thấy toàn những điều kỳ diệu, - nguyên soái nói, - ông chắc chắn phải là một nhạc sĩ vĩ đại? - Không, - Ba-um-vây trả lời và ngừng đàn, - Tôi chơi nhạc trong các đám cưới và các buổi dạ hội ở nhà những điền chủ nhỏ và những người giàu có. Gần bậc tam cấp vang lên tiếng cót két của càng xe trượt. Những con ngựa hí lên. Ba-um-vây đứng dậy: - Đấy, người ta đã đến tìm tôi. Xin từ biệt ngài. - Ông đi đâu? - nguyên soái hỏi. - Trong rừng cách đây hai dặm có nhà người gác rừng. - Ba-um-vây trả lời. Hôm nay cô ca sĩ Ma-ri-a Tre-nhi đáng yêu của chúng tôi mời khách ở nhà ông ta. Cô ấy lánh chiến tranh ở đây. Hôm nay Ma-ri-a Tre-nhi tròn hai mươi ba tuổi và cô ấy tổ chức một buổi dạ hội nhỏ. Mà dạ hội nào lại có thể thiếu lão nhạc sĩ pi-a-no Ba-um-vây già cả này được? - Nguyên soái đứng lên khỏi ghế: - Này ông, - ông nói, - sáng mai đoàn quân của ta sẽ rời khỏi đây. Không biết là về phía ta có gì là đường đột không, nếu ta đi cùng với ông và qua đêm nay ở nhà người gác rừng nọ? - Ngài sẽ được vừa lòng, Ba-um-vây trả lời và nhẫn nại nghiêng mình chào nhưng rõ ràng là ông ta ngạc nhiên về những lời của nguyên soái. - Nhưng, - nguyên soái nói, - đừng có nói với ai về chuyện này đấy. Ta sẽ đi ra qua cầu thang tối và lên xe trượt gần giếng. - Ngài sẽ được vừa lòng. Ba-um-vây nhắc lại, lại nghiêng mình chào và bước ra. Nguyên soái mỉm cười. Buổi tối nay ông không uống rượu, nhưng một sự ngây ngất vô hình làm dâng lên trong ông một sinh lực phi thường. - Mùa đông! - Ông nói một mình - Đi thôi, qua rừng, qua núi đồi đêm khuya! Tuyệt lắm! Ông khoác chiếc áo choàng và thận trọng bước qua cái vườn hoa nhỏ ra khỏi khách sạn. Ở gần giếng có một chiếc xe trượt, Ba-um-vây đang đợi nguyên soái. Mấy con ngựa thở phì phò kéo chiếc xe qua trạm gác ở cạnh đường. Mặc dù đã muộn song người lính gác theo thói quen vẫn khoác súng vào vai và chào nguyên soái. Ông nghe mãi tiếng nhạc ngựa đang rộn rã vang xa và khe khẽ gật gù: - Đêm mới tuyệt làm sao! Chà, giá mà được ngụm rượu nóng nữa nhỉ! Những con ngựa chạy nhanh trên mặt đất trắng như được dát bạc. Tuyết tan trên những cái mõm nóng hổi của chúng. Băng giá mê hoặc cả khu rừng. Những dây leo đen thẫm quấn chặt quanh thân cây dẻ dường như cố sưởi ấm cho dòng nhựa sống đang chảy trong đó. Bỗng nhiên mấy con ngựa dừng lại gần một con suối. Con suối này không đóng băng. Nó chảy từ những hang núi len lỏi qua rừng rậm, rừng thưa, qua những gốc cây rừng trụi lá vì băng giá. Nó sủi ngầu bọt và kêu ồn lên giữa những tảng đá. Những con ngựa uống nước dưới suối. Có cái gì đó dưới chân chúng làm vọt lên những tia nước óng ánh. Lũ ngựa né tránh và vùng phi nước đại theo con đường hẹp. - Cá Hồi đấy - Bác xà ích nói - Con cá nhộn thật! Nguyên soái mỉm cười. Sự ngây ngất vẫn còn đâu đây. Nó không biến đi ngay cả khi mấy con ngựa kéo xe trượt qua cánh rừng thưa giữa những ngọn núi tới ngôi nhà cũ kỹ mái cao vút. Những ô cửa sổ sáng ánh đèn. Bác xà ích nhảy xuống và tháo ngựa ra khỏi xe. Cửa để ngõ. Nguyên soái khoác tay Ba-um-vây đi vào. Hai người cởi bỏ áo khoác ở phòng ngoài được chiếu sáng bằng những ngọn nến rồi dừng lại trước ngưỡng cửa. Trong nhà đã có một số phụ nữ và đàn ông ăn mặc lịch sự. Một người trong đám phụ nữ đứng dậy. Nguyên soái nhìn nàng và đoán rằng đây là Ma-ri-a Tre-nhi. - Xin bà hãy thứ lỗi cho tôi, - nguyên soái nói và hơi đỏ mặt - Xin bà hãy thứ lỗi cho cuộc đến thăm không được mời này. Nhưng những người lính chúng tôi không được biết đến cả gia đình lẫn ngày hội hay một niềm vui thanh bình. Xin bà hãy cho tôi sưởi ấm đôi chút cạnh ngọn lửa của bà. Người gác rừng già nua nghiêng mình chào nguyên soái còn Ma-ri-a Tre-nhi bước nhanh tới nhìn vào mắt ông và chìa tay ra. Nguyên soái hôn bàn tay ấy và cảm thấy nó lạnh như băng. Mọi người im lặng. Ma-ri-a Tre-nhi thận trọng sờ lên má nguyên soái, đưa tay theo vết sẹo sâu và hỏi: - Cái này chắc là phải đau lắm? - Vâng, - nguyên soái mỉm cười trả lời - Đó là một nhát gươm rất mạnh. Rồi nàng cầm tay ông và dẫn đến chỗ khách khứa. Nàng giới thiệu ông bối rối đỏ bừng mặt như đang giới thiệu với họ vị hôn phu của mình. Tiếng xì xào nghi hoặc lan dài trong đám khách. Không biết là tôi có nên tả cho bạn đọc sắc đẹp của Ma-ri-a Tre-nhi hay không? Nếu bạn cũng như tôi được sống cùng thời với nàng thì ắt là sẽ được nghe nói về sắc đẹp rực rỡ của nàng, về bước đi nhẹ nhàng, dáng điệu kiêu sa nhưng mê hồn của nàng. Không có một người đàn ông nào lại dám ngưỡng vọng đến tình yêu của nàng. Có lẽ chỉ có những người như Si-lơ mới xứng với tình yêu của Ma-ri-a Tre-nhi. Sau đó thì sao? Nguyên soái đã ở lại nhà người gác rừng hai ngày. Chúng ta sẽ không nói về tình yêu vì cho đến nay thì chúng ta vẫn chưa biết nó là cái gì. Có lẽ đó là tuyết dày rơi suốt đêm hay là những con suối mùa đông nơi cá Hồi vui đùa. Hay đó là tiếng cười, giọng hát và mùi hắc ín cũ trước bình minh, khi những cây nến cháy hết và những ngôi sao bay sát đến các ô cửa kính để ánh lên trong mắt Ma-ri-a Tre-nhi - Ai biết được? Có lẽ đó là cánh tay trần trên chiếc cầu vai nghiệt ngã, những ngón tay đang vuốt mái tóc nhiễm lạnh, chiếc áo đuôi tôm vá víu của Ba-um-vây. Đó là những giọt lệ đàn ông rơi xuống vì những điều mà chưa bao giờ trái tim ngờ tới: sự dịu dàng âu yếm, tiếng thì thào ngắt quãng giữa đêm rừng khuya. Có lẽ đó là sự quay lại với thời ấu thơ. Ai biết được? Và có thể đó là nỗi tuyệt vọng trước ly biệt, khi trái tim tan nát và Ma-ri-a Tre-nhi kinh hoàng đưa tay sờ soạng những mảnh giấy bồi tường, bàn ghế và những cánh cửa của gian phòng đã chứng kiến tình yêu của nàng và cũng có lẽ đó là tiếng kêu thét và cơn điên dại của người phụ nữ khi trong đám khói của những ngọn đuốc ngoài cửa sổ, cùng với những tiếng hò hét gay gắt, đội cảnh vệ của Na-pô-lê-ông nhảy xuống ngựa và xông vào nhà để bắt nguyên soái theo nghiêm lệnh của thống chế. Có những câu chuyện vụt hiện ra rồi biến đi như những con chim, song mãi mãi còn lại trong tâm trí những người tình cờ đã chứng kiến nó. Mọi cái xung quanh vẫn như trước. Tất cả vẫn xào xạc cùng gió rừng và con suối vẫn đang làm những chiếc lá sẫm vàng quay tròn nơi những xoáy nước nhỏ. Trong rừng vẫn vang vọng tiếng rìu và trong thành phố, phụ nữ vẫn tụ họp bên giếng để bàn tán. Nhưng chẳng hiểu vì sao tất cả những rừng, những tuyết áng rơi lả tả, những sắc ánh của cá Hồi trong suối ấy lại làm Ba-um-vây rút ra từ túi trong của chiếc áo đuôi tôm một chiếc khăn quàng tuy đã cũ nhưng vẫn trắng như tuyết, ấp chặt nó vào mắt và thì thầm những lời buồn bã rời rạc về mối tình ngắn ngủi của Ma-ri-a Tre-nhi và về cái điều là cuộc sống đã được thời gian làm cho giống với âm nhạc. Mặc dù đau nhói trong tim, song Ba-um-vây đã thì thầm rằng ông sung sướng được tham dự vào câu chuyện này và cảm thấy xúc động - một điều hiếm có đối với người nhạc sĩ pi-a-nô nghèo khổ ấy. ĐẶNG MẠNH PHỐ dịch (8/8-84) |
ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.
IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.
LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.
BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.