Những tháng ngày qua, cả nước căng mình chống đại dịch Covid-19 - kẻ thù cực kỳ nguy hiểm mà vô hình. Cuộc sống thường ngày vốn luôn sôi động bỗng trầm lặng xuống với không ít nỗi lo và sự ám ảnh, chờ đợi.
Một cảnh trong vở "Cuộc chiến Covid" của Sân khấu Lệ Ngọc. Ảnh: Sân khấu Lệ Ngọc
Cùng với sự vào cuộc quyết liệt, kịp thời của cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và đông đảo người dân, hàng vạn cán bộ ngành y, bộ đội, công an, những người tình nguyện đã lên đường vào nam chống dịch. Trước thách thức khắc nghiệt đó, mỗi người dân đất Việt càng siết chặt tay nhau, trụ vững và luôn giữ niềm tin chiến thắng.
Thật bất ngờ, đáp lại sự mong đợi và khát khao ấy, những tháng ngày qua, hàng trăm, hàng nghìn sáng tác văn học, nghệ thuật đã đồng loạt ra đời và lan tỏa trong cả nước, trên báo, đài truyền hình, phát thanh ở Trung ương và địa phương, trên các nền tảng mạng xã hội… Cuộc sống với những thử thách cam go bỗng bừng sáng lên với một niềm tự tin, tình yêu thương và sức cổ vũ, vẫy gọi toát lên từ những sáng tác giàu tâm huyết và sự chân thành từ đáy lòng những người sáng tạo - văn nghệ sĩ. Tôi không thể kể hết ra đây, song những gì đã được nghe, nhìn, đọc, thấy cũng đủ để cảm nhận về một sức sống mãnh liệt, giàu nhiệt huyết của một cao trào sáng tạo tự nguyện ấy. Thật là ấm lòng, tràn ngập tình yêu thương, tự hào về mảnh đất và con người ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh qua các ca khúc đằm thắm và giàu nhạc điệu như MV "Sài Gòn thương", "Sài Gòn đẹp lắm" hay "Sống như tia nắng mặt trời"… Sài Gòn đang gồng mình chống Covid-19 đấy và đang chịu nhiều mất mát, đau thương, song vang lên trong các ca khúc đó là tình yêu con người, quê hương, đất nước, là sự vẫy gọi con người vươn lên, trụ vững trước mọi thử thách.
Như một truyền thống đã có từ nghìn năm, mỗi lúc dân tộc đang phải đương đầu với những thách thức sống còn, nhà văn, văn học lại lập tức nhập cuộc, tự nguyện đứng trong đội ngũ chiến sĩ - công dân, "không ngồi yên được, phải đi vào tâm dịch" (như tâm sự của nhà văn Trần Nhã Thụy - đại diện của Nhà xuất bản Hội Nhà văn khu vực phía nam) để viết - viết cái thật, cái kiên cường, cái tình người cao đẹp và viết cái thật của chính lòng mình. Hàng trăm bài bút ký, ký sự, ghi chép, thơ, truyện đã ra đời… của các thế hệ nhà văn, từ những cây bút già dặn, gạo cội, đến những người viết trẻ đều có chung một cảm xúc, một ý nguyện: góp tiếng nói giúp đồng bào, đồng đội mình vững vàng vượt qua thử thách. Thật xúc động khi nghe những lời tâm sự gan ruột của nhà văn Y Ban khi viết "Nhật ký nhà văn" - viết về những gì quanh mình nhưng chính là viết hết mực chân thành "những tấm lòng cao cả" trong dịch bệnh. Cũng thật bất ngờ và cảm động khi biết TS Cù Thu Hương, từ Pháp trở về nước, chứng kiến nỗi đau, sự kiên cường, lạc quan, tình người của đồng bào mình và đã viết tác phẩm "Paris+14". Thật là, "cuộc chiến này không của riêng ai". Hàng trăm nhà thơ, cả chuyên nghiệp và không chuyên đã tham gia cuộc vận động sáng tác thơ về đất và người phương nam chống dịch.
Những tác phẩm giàu chất hiện thực và sức cổ vũ do các nhà điện ảnh, truyền hình đã liên tục được trình chiếu và có sức lan tỏa mạnh mẽ. Rất kịp thời mà vẫn giàu chất nhân văn. Không né tránh những mất mát nhưng tràn đầy niềm tin, sự lạc quan và sức cổ vũ con người trong cuộc chiến cam go chưa có hồi kết. Tôi đã xem hàng chục phim như vậy, không dừng lại ở thể loại báo chí mà đậm sâu chất điện ảnh.
Cùng với những bộ phim truyện kịp thời phản ánh cuộc sống và con người trong cuộc chiến chống Covid-19, sân khấu cũng vào cuộc. Ðoàn kịch Hải Phòng đã nhanh nhạy cho dàn dựng vở "Người trong mắt bão" ngợi ca những con người kiên cường, chịu mọi hy sinh để cứu sống đồng bào mình. Thật bất ngờ mà không gây ngạc nhiên khi biết nhà báo, nhà viết kịch bản Huỳnh Dũng Nhân đã đổi "tay nghề", vẽ tranh cổ động, phục vụ kịp thời cho cuộc chiến. Các họa sĩ thành danh như Thành Chương, Lê Sa Long và cả cháu gái còn ở độ tuổi vị thành niên Nguyễn Ðỗ Chung Anh cũng say sưa vẽ tranh cổ động. Họ muốn góp ngay một tiếng nói nghệ thuật và có lẽ sâu xa hơn, một tấm lòng, vì cuộc chiến đang diễn ra.
Tôi đã được xem nhiều bức ảnh (cả báo chí và nghệ thuật) chụp chân thật, ở nhiều góc độ khác nhau, khẳng định và ngợi ca những con người đang căng mình chịu đựng để vượt qua và chiến thắng trong đại dịch, trong đó, nổi bật hơn cả, làm xúc động sâu sắc người xem là hình ảnh các bác sĩ, điều dưỡng, cán bộ ngành y, bộ đội và công an… Những góc chụp của Ngô Trần Hải An, Minh Hòa,… không chỉ là sự tìm tòi của nghề nghiệp mà là sự nhạy cảm của tấm lòng nghệ sĩ.
Và rồi, đã có những chương trình biểu diễn nghệ thuật chưa từng có tiền lệ đã được tổ chức - biểu diễn không có khán giả trực tiếp ở khán phòng nhà hát. Chương trình "Hát để sẻ chia" đã diễn ra ba lần với sự tham gia tự nguyện của hàng trăm ca sĩ. Ðã có tới hàng trăm diễn viên múa tự nguyện, nhiệt tình đăng ký tham gia Tổ khúc múa "Ánh sáng tâm hồn" khi được biết tổ khúc múa này nhằm mục đích đẹp đẽ và nhân văn: bằng sáng tạo nghệ thuật cổ vũ cho cuộc chiến chống đại dịch Covid-19.
Vừa xem, tiếp nhận các tác phẩm trên, tôi vừa băn khoăn tự hỏi: Phải chăng đây là sự ngẫu nhiên, sự tự phát? Tự răn mình, có lẽ phải suy nghĩ kỹ hơn. Lịch sử văn học, nghệ thuật nước nhà, từ hàng nghìn năm nay, luôn đồng hành cùng lịch sử dân tộc. Ðiều đó như là đặc điểm chung của nhiều nền văn nghệ. Song, lịch sử của chúng ta có những bước ngoặt lớn, những thử thách khốc liệt, đặc biệt khi bị xâm lăng, bị đô hộ, cả dân tộc phải kiên cường chiến đấu giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Những thời khắc lịch sử đó, văn nghệ, văn nghệ sĩ làm gì? Tôi tự hỏi và tìm câu trả lời bằng chính minh chứng lịch sử. Giặc Ân xâm lược, truyền thuyết người anh hùng Thánh Gióng ra đời. Trận chiến quyết tử trên sông Như Nguyệt có bài thơ thần "Nam quốc Sơn hà". Tham gia đánh tan giặc Minh, buộc chúng phải đầu hàng có những bức thư hào sảng, đầy niềm tin chiến thắng trở thành một sức mạnh, một loại "vũ khí" của Nguyễn Trãi. Không thể trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa hào hùng chống thực dân Pháp của đồng bào Nam Bộ, nhà thơ mù giàu lòng yêu nước Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng tài năng sáng tạo của mình để "chỉ đạo" và "đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"… Nhớ lại lịch sử chưa xa, khi cả nước ra trận đánh thực dân Pháp, đánh đế quốc Mỹ, cả nền văn nghệ của chúng ta, các thế hệ văn nghệ sĩ - chiến sĩ cùng ra trận. Không chỉ là đồng hành, là người trong cuộc, mà còn tự nguyện trở thành sức mạnh đặc biệt cổ vũ, vẫy gọi con người trụ vững, kiên cường chiến đấu vì chiến thắng. Nhà văn Hữu Mai, người đã sống và viết trọn vẹn trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đã chân thành tâm sự: "Tôi chỉ mong ghi lại một cách trung thực, càng nhiều càng tốt, những gì đã biết về một thời kỳ lịch sử hiếm có, rất đẹp, rất phong phú của dân tộc mà mình đã may mắn vừa là nhân chứng, vừa là người trong cuộc". Còn nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm đã đúc kết: "Tấm lòng", đó là tâm hồn tác giả trên từng trang sách… thiếu đi tấm lòng nhân hậu, cao thượng thì vẫn chưa thể có văn hay".
Tôi nghĩ, không hiểu có thật chính xác không, những ngày này không phải chiến tranh, nhưng chúng ta "chống dịch như chống giặc", cả dân tộc đang đứng trước những thách thức khốc liệt, chưa từng có, phải hy sinh, đoàn kết, kiên cường chịu đựng và vượt qua. Trong tâm thế đó của toàn dân tộc, văn nghệ của chúng ta lại một lần nữa "ra trận", làm người đồng hành, người trong cuộc, người cổ vũ, như những thời kỳ lịch sử đặc biệt nghìn năm qua. Như cha anh mình trước đây, họ hiểu rõ trong các cuộc chiến này luôn đan xen cái thiện và ác, cái đẹp và xấu, cái cao thượng và thấp hèn… Họ rất tỉnh táo, nhưng khi nhìn nhận hiện thực, họ tự tin khẳng định ngợi ca dòng mạch chính của cuộc chiến đấu, đó là cái tốt, cái đẹp, cái anh hùng, cái cao thượng. Ðó là hiện thực và đó còn là ý thức công dân, tình yêu đất nước, khát vọng bảo vệ những người đang hy sinh, chiến đấu vì chiến thắng. Thời gian có thể sàng lọc, nhưng cái đặc trưng của văn nghệ thời kỳ đặc biệt này sẽ đi vào lịch sử văn nghệ nước nhà một quy luật tự nhiên, như một dấu ấn đặc biệt.
Khi viết đến các dòng trên, tôi tạm dừng bút, bật ti-vi nghe tin tức về dịch Covid-19. Bỗng xuất hiện hình ảnh khoảng dăm bảy chục diễn viên hát Quốc ca. Chao ôi, bài Quốc ca trầm hùng, hào sảng, ấm áp xuyên thấm vào lòng người. Họ hát từ trái tim, từ tấm lòng, từ tình yêu. Ðã bao lần hát và nghe Quốc ca, mà tối nay, chúng tôi đã không cầm được nước mắt. Như cảm thấy có thêm sức mạnh. Tổ quốc trong tim tất cả chúng ta.
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.