Sự trở về tưởng tượng

08:24 15/10/2010
Atiq Rahimi sinh năm 1962 tại Afghanistan, nhưng đến sống ở Pháp vào năm 1984. Tại Pháp ông trở thành một nhà văn, nhà làm phim tài liệu và phim truyện nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông “The Patience Stone - “Nhẫn thạch” được giải thưởng danh giá Prix Goncourt năm 2008. Phim dựa trên tiểu thuyết của ông “Earth and Ashes - Đất và Tro” được tuyển chọn chính thức tại liên hoan phim Cannes năm 2004 và được một số giải thưởng.

Nhà văn Atiq Rahimi - Ảnh: internet

Hiện ông đang biên tập lại một tiểu thuyết khác của ông “A Thousand Rooms of Dreams and Fear - Một ngàn căn phòng dành cho những Giấc Mơ và Sợ Hãi” để dựng thành phim. Từ 2001 Rahimi đã trở về Afghanistan để tổ chức một Nhà Sáng Tác ở thủ đô Kabul để giúp đỡ và đào tạo các nhà làm phim và nhà văn trẻ Afghanistan.
Ông sống tại Paris, Pháp.
Truyện ngắn dưới đây nguyên bản tiếng Pháp, được Edward Gauvin dịch sang Anh ngữ và tạp chí WordsWithoutBorders số tháng 4/2010 giới thiệu. Bản dịch tiếng Việt theo Edward Gauvin. “Sự trở về tưởng tượng” gắn với cảm hứng từ lưu đày và quê nhà với nghiệp văn chương. Mô típ “ra đi” và “trở về” , kiểu kể chuyện phân thân song trùng giữa người kể chuyện tôi và nhân vật, chất thơ trong ngôn ngữ tạo nên vẻ đẹp đặc biệt của thiên truyện trong việc phơi tả một khía cạnh của đất nước Afghanistan giữa áp bức, chiến tranh và giấc mơ hòa bình, tự do.



ATIQ RAHIMI


Sự trở về tưởng tượng


Năm 1984

Đêm. Đêm thứ chín. Đêm tịch lặng nhất, ngột ngạt nhất. Dưới màu trắng của tuyết, trong cái tăm tối của thời gian, tứ bề không thể nhận định được.

Đêm. Đêm thứ chín. Tay buôn lậu đã nói:

- Vào đêm thứ chín, mình sẽ vượt biên giới.

Bí mật, lặng thầm, chúng tôi đến gần biên giới. Tất cả những người tị nạn, đang rời đất mẹ. Mỗi người vì một người, một việc, một lời…

Đêm. Đêm thứ chín.

Chúng tôi đến vị trí cửa ngõ. Tay buôn lậu kêu lên:

- Dừng lại. Hãy nhìn lại. 

Mọi người dừng lại. Mọi người nhìn lại.

- Đây là cái nhìn quê hương lần cuối cùng.

Đất mẹ, dưới màu trắng của tuyết, trong cái tăm tối của thời gian, đã trở nên không thể nhìn thấy. Không có gì ngoài những bước chân của chúng tôi. Mọi người khóc. Chúng tôi chạy tới biên giới. 

Một người trong số chúng tôi bị chậm lại. Anh ta dừng lại. Anh là một người nhỏ con. Anh không có túi xách và đã luôn luôn đi chậm hơn, với nhiều khó khăn hơn những người khác. Người đàn ông ngồi dưới chân một tảng đá. Tôi đến giúp anh đứng dậy và chạy theo những người khác đến biên giới. Anh thản nhiên nói:

- Để đi tới đâu?

- Vượt biên giới!

- Để làm gì?

- Vậy sao anh còn đi tới đây?

- Vì chữ nghĩa. Tôi mang tất cả chữ nghĩa đi cùng tôi trong chuyến này, để mang chúng vượt qua biên giới.

Chữ nghĩa? Những chữ nghĩa gì? Tôi đang suy nghĩ thì người đàn ông đáp lại sự hoang mang của tôi.

- Đối với thơ ca, tôi giấu sự kinh hoàng và áp bức vô nghĩa trong chiều sâu của cái nhìn của tôi. Như bây giờ, khi người buôn lậu bảo chúng ta nhìn lại - chúng ta nhìn lại và khóc - từ ngữ rớt lại cùng nước mắt của tôi. Chúng chuồi trên đất. Chúng biến trong tuyết. Không có chúng, tôi sẽ là một người nước ngoài ở bất kỳ nơi đâu tôi đến, nước ngoài còn hơn những người nước ngoài.

Tôi trở lại chỗ người đàn ông đã khóc. Nước mắt của anh làm tan tuyết và mềm đất. Tôi bốc một nắm đất và trở lại với người đàn ông, anh ta cho tôi một nụ cười cay đắng. Anh nói:

- Từ ngữ có thể không còn bị chia rẽ với đất đai.

Anh tựa lưng vào tảng đá và ra hiệu anh muốn ở một mình. Nhưng tôi vẫn đứng trước anh, bất động. Người đàn ông vẫn cười. Nụ cười của anh lấn chiếm tôi. Tôi sắp bắt đầu chạy về phía biên giới thì anh nói:

- Tên tôi là Atiq.

- Atiq! Anh trùng tên với tôi hay là anh em sinh đôi của tôi?

- Không trùng tên mà cũng không sinh đôi. Anh chỉ mang tên tôi.

Tôi sợ. Tôi bỏ anh ta ở đó và bắt đầu chạy.

Vượt qua biên giới tôi thấy một dải đất phủ tuyết, trắng như một tờ giấy.

Không một dấu vết.

Không một từ ngữ.

Lề của nó lạc trong bóng tối của thời gian.


Năm 2002

Ngày. Ngày thứ tám mươi mốt.

Đất vẫn còn đông cứng. Đất rạn dưới những bước chân của chúng tôi.

Ngày. Ngày thứ tám mươi mốt từ khi Đội Quân của Bóng tối - quân Taliban - đã rút khỏi Kabul.

Và mỗi ngày, tôi đến phi trường để đón mừng những người trở lại quê hương.

Mỗi ngày, chờ đợi một người, một cái nhìn, một lời nói…

Ngày. Ngày thứ tám mươi mốt, thì anh ta xuống máy bay. Với vẻ buồn đau anh ta nhìn tất cả những khuôn mặt bất thường, buồn. Tôi đến bên anh.

- Mừng anh về, người anh em.

Một nụ cười run run trên môi anh. Cái nhìn tò mò của anh chìm trong những túm râu dày sợi đen sợi trắng của tôi, như thể đánh giá tôi. Tôi đỡ túi xách của anh:

- Nặng quá!

- Đó là đồ nghề nhiếp ảnh.

- Anh là nhà báo?

- Không. Còn anh?

- Tôi giúp đỡ các du khách có hành lý cồng kềnh.

Một chiếc xe trung chuyển nhỏ đến đón khách ở chân cầu thang và đưa họ vào ga. Mọi người lên xe. Người lái xe mở một bài ca của Ahmad Zahir.

Hãy đến xem, vườn hồng đang nở
Hãy đến xem, người tôi yêu đã đến.

Đó là một bài thơ của Mawlana và giọng của Ahmad Zahir quyện lấy tiếng thổn thức của người đàn bà bên cạnh tôi.

Thành phố sẽ đứng lên khi tiếng đồn lan rộng
Rằng con người điên đã bức xích xiềng một lần nữa.

Người khách của tôi, buồn hơn bao giờ hết, nhìn những tàn tích phi cơ hoen rỉ rải rác trên mặt đất chung quanh phi trường.

Xe trung chuyển dừng. Chúng tôi đang xuống xe thì người khách của tôi dừng ngay cửa xe, bị thu hút bởi câu gì đó viết trên kính chắn gió phía người tài xế.

Điều này rồi cũng sẽ trôi qua.

Tôi đọc lớn câu đó. Người khách rời những từ ngữ và quay lại tìm cái nhìn của tôi. Tôi tiếp tục:

- Ngày xưa có một ông vua. Một ngày nọ, vua ra lệnh cho một nghệ sĩ của vương triều sáng tạo một tác phẩm sẽ làm cho ngài vui khi ngài buồn và buồn khi ngài vui. Người nghệ sĩ làm một chiếc nhẫn trên đó có khắc những từ ngữ này.

Điều này rồi cũng sẽ trôi qua.

Chúng tôi rời xe trung chuyển.

Bối rối hơn bao giờ hết, người khách đăm đăm nhìn tôi tìm một manh mối. Tôi tiếp tục:

- Câu này đã đi cùng chúng ta suốt hai mươi ba năm chiến tranh. Niềm vui và nỗi buồn của chúng ta cùng nó đã còn lại.

Chúng tôi đến trạm hải quan. Người khách lấy sổ thông hành ra đưa cho người phụ trách, anh ta hỏi:

- Tên?

- Atiq.

- Quốc tịch?

- Pháp.

Anh ta cho tôi một nụ cười cay đắng. Tôi nói nhỏ vào tai anh:

- Tên tôi cũng là Atiq.

Khuôn mặt thất sắc của anh ta chợt sáng lên. Anh sắp nói điều gì đó, nhưng tôi chận lại:

- Không, anh không trùng tên mà cũng không là anh em sinh đôi của tôi. Anh chỉ mang tên tôi, người ra đi để bị lạc ở bên kia biên giới, trên lề của thời gian.

VÕ HOÀNG MINH dịch
(Imaginary Return)

(259/9-10)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AMBROSE BIERCE   

    Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.

  • Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.

  • THOMAS VINT

    L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.

  • JOSHUA BROWN (Mỹ)  

    “Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
    Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

  • RAY BRADBURY

    Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

  • Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.

  • JORGE LUIS BORGES

    Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.

  • CLAUDE FARRÈRE

    Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

  • HERMANN HESSE
    (Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)    

    Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.

  • Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
    Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
    Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.

  • ALEKSANDAR HEMON

    Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. 

  • Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

  • LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.

  • LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.

  • Sinh ở Manzanillo năm 1907, Loló de la Torriente sống ở Havana từ thuở nhỏ. Bà đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại Machado và các chế độ ủng hộ đế quốc sau đó. Bà trở thành giáo viên và là một đảng viên của Đảng Cộng sản Cuba.

  • Michel Déon sinh năm 1919 tại Paris. Sau khi tốt nghiệp ngành Luật, ông tòng quân cho đến tháng 11 năm 1942. Ở lại vùng phía nam nước Pháp bị tạm chiếm, ông cộng tác với nhiều báo và tạp chí khác nhau.

  • LGT: Alissa York sinh tại Australia và lớn lên tại tỉnh bang Edmonton, Canada, và là tác giả của năm tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm bán chạy: The Naturalist, Fauna, Effigy, Mercy, Any Given Power. Cô nhận giải Bronwen Wallace Memorial Award vào năm 1999, và đã từng được đề cử giải văn chương danh giá Scotiabank Giller Prize.

  • LGT: “Cơn Giông” là một trong các tác phẩm Nabokov, văn hào Mỹ gốc Nga, viết trong thời kỳ ông còn sáng tác bằng tiếng Nga, và được đăng lần đầu trên báo Đỵíÿ (Hôm Nay) vào ngày 28 tháng 9 năm 1924. Sau này, nó được Dmitri Nabokov, con trai tác giả, dịch lại qua tiếng Anh và đăng trong một số tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nabokov. Bản dịch dưới đây được dịch giả Thiên Lương, người từng dịch Lolita, thực hiện từ bản gốc tiếng Nga.