PHONG LÊ
Giáo sư Phong Lê thập niên 90
I. Sự thật trong văn học
Yêu cầu cho tự do sáng tác, bao gồm tự do bên ngoài và tự do bên trong, cùng với trách nhiệm xã hội của nhà văn là tinh thần được nêu trong Nghị quyết 05 của Bộ chính trị. Dẫu vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều vướng mắc trong quan niệm và thực tiễn của đời sống văn học cần giải quyết, không tách rời với bối cảnh rộng lớn và phức tạp của sự nghiệp cách mạng, nhưng quả đã có một khí hậu khác trước trong mối quan hệ giữa văn học và hiện thực mà khởi động được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng với phương châm "Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật".
Bây giờ hẳn không còn là lúc người viết băn khoăn: có buộc phải chỉ có ca ngợi và không được phép nói mặt xấu ? Hoặc ngược lại chỉ nên nêu lên cái xấu, và bớt bớt đi sự ca ngợi ! Bây giờ là lúc toàn bộ sự thật phải được nhìn nhận lại, cố nhiên trên lập trường và lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Sự thật và trách nhiệm phải nói thật, cùng với quyền được nói thật như chính Đảng yêu cầu. Không được giả dối, che đậy, xuyên tạc. Không nên "uốn cong ngòi bút" và "viết theo kiểu tùy thời"(1), vì bất cứ lý do gì. Yêu cầu này rồi sẽ gây ngạc nhiên và chấn động cho không ít những ai còn muốn bưng bít, che dấu sự thật vì đủ các loại lý do; và cho tất cả những ai còn "quan liêu" xa rời sự thật. Nó cũng đụng chạm đến cả những ai vẫn còn bị cầm tù trong các quan niệm cũ, định kiến cũ…
Điều dễ hiểu là từ khởi động đó mà sự phát triển mới của văn học được ghi nhận bằng một loại sáng tác đi vào các mặt bề bộn, phức tạp của đời sống, từ quá khứ đến hiện tại. Bức tranh hiện thực bỗng trở nên lung linh, đa sắc như một bản vẽ nhiều mầu, không chỉ được soi chiếu từ nhiều chiều cạnh, mà còn được đặt dưới sự phán xét của các quan điểm không chỉ khác nhau, mà còn là trái ngược nhau. Hệ quả là những tranh cãi đã diễn ra, có mặt thật gay gắt, kéo dài, không dễ phân thắng bại, và cũng không nên sốt ruột trong việc phân xử thắng bại.
Sự thật với khuôn mặt đích thực của nó - đang là mục tiêu kiếm tìm, nhận dạng của văn học chúng ta. Không thể đổ lỗi cho sự thật nếu cuộc sống đã diễn ra như vậy, và có bộ mặt như vậy. Chỉ có thể đổ lỗi cho văn học nếu sự thật trong tác phẩm là nhạt nhẽo, gầy guộc, hoặc chỉ là sự vờn quanh, là nửa vời, là bị che đậy. Nếu có lúc nào đó trước đây người viết còn phải đắn đo trước sự thật vì một lẽ chính đáng hoặc không chính đáng nào đấy, thì bây giờ sự đắn đo, tránh né sự thật lại là sự thiếu bản lĩnh hoặc vô trách nhiệm. Cố nhiên không phải lúc nào con người cũng nói hết được sự thật. Sự thật đang diễn biến, bao hàm nhiều khả năng, phải với khoảng lùi thời gian mới bộc lộ đầy đủ các khía cạnh. Mặt khác, có những qui định của hoàn cảnh mà trách nhiệm công dân-xã hội của nhà văn phải biết giới hạn. Nhưng sự thật chưa được nói hết không phải là sự thật bị che đậy hoặc xuyên tạc. Sự thật chưa được nói hết có nghĩa là rồi sẽ hứa hẹn được nói tiếp. Có vậy mới không gây mơ hồ hoặc thất vọng.
Chân lí nằm trong ý của Biêlinski: "Một dân tộc càng mạnh, càng vươn cao về mặt đạo đức bao nhiêu, thì nó càng dũng cảm nhìn vào những mặt non yếu và những thiếu sót của mình bấy nhiêu. Một dân tộc yếu hèn hoặc già cỗi, tàn tạ đến mức không thể tiến lên được nữa thì chỉ thích ca tụng mình và chúa sợ nhòm vào những vết thương của mình, vì nó biết rằng đó là những vết tử thương, rằng thực tại của nó không phải là một cái gì phấn khởi, rằng nó chỉ có thể tìm thấy những niềm an ủi giả dối trong sự đánh lừa mình thôi. Một dân tộc vĩ đại, đầy sức sống không như vậy được"(2).
Không kiêu mãn để tự nhận dân tộc ta là vĩ đại, nhưng phẩm chất anh hùng trong chiến đấu giữ nước là cái chúng ta có truyền thống hàng ngàn năm, và hai cuộc kháng chiến của ta được thế giới thừa nhận là vĩ đại. Trên vốn liếng ấy, và với bản lĩnh ấy, Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta lẽ nào lại sợ sự thật !
Nhưng cũng phải sau khi chiến tranh kết thúc hàng chục năm, cho đến Đại hội VI, với khẩu hiệu "nhìn thẳng vào sự thật", văn học mới có một chuyển biến thật sự trên hành trình đi vào sự thật. Nếu có một thời, do hoàn cảnh chiến tranh văn học phải nhấn mạnh chức năng giáo dục; thì giờ đây, văn học thật sự muốn đạt chức năng giáo dục lại phải làm sáng tỏ sự thật toàn diện, không được che đậy cả những mặt khuất tối, những bóng đen. Trên bức tranh hiện thực, cái cũ, cái xấu, cái ác cũng phải có vị trí xứng đáng của nó trong văn học để đạt một giá trị nhận thức và hiệu quả cảnh báo và cảnh tỉnh cho con người.
II. Văn học trong chức năng khám phá sự thật.
Một bước chuyển trên hành trình đi vào sự thật với bộ mặt đầy đủ của nó, hoặc với sự nhấn mạnh các mặt phức tạp, tiêu cực của nó, như trong đời sống văn học những năm gần đây quả không khỏi không gây ngạc nhiên hoặc lo lắng cho nhiều người. Thậm chí có người không chấp nhận, không chịu nổi. Và đó là nguyên cớ chính gây nên tranh cãi, gây nên những đánh giá, khen chê trái ngược nhau. Nhưng quả biết nói thế nào khi chính đời sống cũng đang trong một cuộc vật lộn giữa ánh sáng và bóng tối, và có lúc, có nơi, dường như bóng tối lại lấn át hoặc bao trùm. Trong hoàn cảnh ấy, gây và giữ vững niềm tin hoặc kêu gọi cảnh báo, cất lên tiếng kêu cứu, khó có thể nói sứ mệnh nào là quan trọng hơn. Văn học phải là tất cả, để, mục tiêu cuối cùng, nói như J.Bônđarep là "giữ vững tính người trong con người Hoặc nói như Aimatốp là "giáo dục chủ nghĩa nhân đạo", như một khái niệm "toàn năng chưa có gì thay thế", một "ngôn ngữ chung", mà nhờ vào đó "các dân tộc có thể truyền cho nhau nghe được tiếng kêu cứu của thế giới".
Tiếng kêu cứu, những lời cảnh báo không phải đến bây giờ mới cất lên khi chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang lâm vào khó khăn và khủng hoảng. Chính do bản thân cuộc sống với những mâu thuẫn bên trong và nhu cầu của nó, và do chức năng tự nhiên của văn học, văn học cảnh báo đó lúc nào cũng có sẵn những khả năng xuất hiện - có điều vì những lý do chính đáng hoặc không lý do chính đáng nào đó cuộc sống đã không cho phép, hoặc kìm hãm sự xuất hiện đó; và những thiệt hại không chỉ riêng về tinh thần, phải nhiều chục năm sau mới bộc lộ. Hôm nay, không riêng văn học chúng ta, mà rộng hơn, văn học của chủ nghĩa xã hội nói chung đang tiến hành một cuộc tổng kiểm tra đó - với các đánh giá khác nhau, các kết quả kiểm tra có khác nhau; nhưng đường hướng chung là sự tất yếu phải nhận thức lại, đánh giá lại, không chỉ bản thân văn học, mà còn là rộng hơn - tất cả những gì chi phối đến văn học, làm nền tảng cho văn học.
Có dễ cũng phải đến hôm nay, trong sự nghiệp đổi mới, trước các biến động của thế giới mà đất nước ta, nhân dân ta không thể là một bộ phận cô lập, chúng ta buộc phải nhận thức lại toàn diện và tận gốc rễ vấn đề, từ quá khứ đến hiện tại, từ chiến tranh sang hòa bình, từ cách mạng sang xây dựng, từ cộng đồng đến cá nhân, từ giai cấp, dân tộc mà đến với nhân loại... Đòi hỏi của một tư duy mới hôm nay, trên mọi lĩnh vực, là không phân chia, đối lập và tách rời các vế đó. Tư duy mới đó rất cần phải là nền tảng cho sự phát triển mới của văn học. Trong yêu cầu nhận thức lại toàn diện và triệt để đó, ta cũng đồng thời nhận thức lại vị trí, chức năng, đặc trưng văn học như một hoạt động sáng tạo, một nhu cầu tinh thần của con người, trước một đối tượng vừa bao la, vừa bí hiểm là hiện thực. Ta đã hết cái ảo tưởng là có thể khám phá hết mọi chiều cạnh của hiện thực; và như vậy chức năng khám phá hiện thực trong dạng đặc thù của nó vốn vẫn đặt ra cho văn học, nhưng có lúc bị mờ chìm, coi nhẹ, hoặc bị đặt dưới những chức năng khác, bỗng nổi đậm hẳn lên, từ hiện thực lớn đến hiện thực nhỏ, bên ngoài và bên trong, cái ta và cái tôi, dân tộc và nhân loại... cùng biết bao là bí ẩn của thế giới chung quanh rộng lớn, từ vi mô đến vĩ mô vốn là đối tượng của khoa học - nhưng cũng là đối tượng của văn học - nghệ thuật. (Tuy vậy, để nói cho chặt chẽ hơn, do văn học nghệ thuật hướng về con người, và có sứ mệnh khám phá thế giới người, mà chính vì có thế giới này, nên hai chiều vừa bao la vừa sâu thẳm trong đối cực của nó là thế giới vi mô và thế giới vĩ mô mới có lí do hiện hữu và có ý nghĩa).
Đã đến lúc cuộc sống cần đến một sự thật đầy đủ mà sứ mệnh tìm kiếm được đặt ra cho văn học nghệ thuật, và khó có phương thức nào tốt hơn văn học nghệ thuật. Đã và sẽ còn nhiều chức năng khác đặt ra cho văn học nghệ thuật. Đã và sẽ còn nhiều chức năng khác đặt ra cho văn học nghệ thuật trong thế giới mới hôm nay - thế giới của sự bùng nổ thông tin, của các phương tiện tự động hóa, của sự ứng dụng rộng rãi máy vi tính, của các khả năng chinh phục vũ trụ... Nhưng dẫu với bất cứ chức năng gì, kể cả chức năng giáo dục - mà nhiều chục năm nay chúng ta coi trọng, đặt lên hàng đầu, cuối cùng rồi chức năng nhận thức phải trở lại vị trí xứng đáng của nó. Cố nhiên chúng ta vẫn coi trọng chức năng giáo dục như một chức năng thiết yếu của văn học, nhưng trong hoàn cảnh hôm nay, để đảm bảo hiệu quả của nó, lại không thể xa rời sự thật, và xa rời chức năng khám phá sự thật. Sau một hành trình dài của Chủ nghĩa xã hội và văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, ý kiến của Rưbacốp, tác giả Những đứa con của phố Ácbát, trong một cuộc phỏng vấn gần đây đáng cho ta suy nghĩ: "Con người được giáo dục bằng sự thật, đó là một nhân cách có đạo đức. Xã hội cũng thế; nếu nó giáo dục các công dân trẻ của mình bằng sự thật, là một xã hội đạo đức; bằng giả dối, điều đó sẽ không tránh khỏi quay lại chống ngay chính nó bằng thái độ công dân thờ ơ, bằng tính vô trách nhiệm, bằng thái độ trâng tráo vô liêm sỉ"(3)
Rõ ràng kinh nghiệm đã cho ta thấy: tất cả mọi sự che đậy, hoặc bóp méo, xuyên tạc sự thật bất cứ vì động cơ gì, rồi đều phải được đặt lại, phải trả giá; và việc sửa chữa, điều chỉnh bức tranh hiện thực cho dần dần được đầy đủ về sự thật, và đúng với sự thật, là một trách nhiệm lịch sử đặt ra cho mọi thế hệ, trong hành trình con người đi tìm chân lý, và đến gần với chân lý./.
Tháng 12-90
P.L.
(TCSH45/03-1991)
---------------------
(1) Chữ dùng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong bài nói tại buổi gặp gỡ văn nghệ sĩ, trong 2 ngày 6 và 7 tháng 11-1987; Văn nghệ số 42, 17-10-1987.
(2) Dẫn theo Lê Sơn: Tiếng cười của một trái tim nổi giận.
(3) Văn học (tiếng Nga), số 14, 19-8-87.
VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.
NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...
NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.
HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).
TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...
PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.
ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời Nguyễn Xuân Sanh
VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.
HỒNG NHU (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.
THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.
NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.
TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).
LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .
HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.
MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.
ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.
THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.