NGUYỄN QUANG THIỀU
Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.
Phải chăng một người quét rác, một người nhặt ve chai, một em bé bán vé số, một người chạy xe ôm, một công nhân làm việc trong nhà máy, một cô gái bán hoa, một vụ tai nạn xe… chỉ là những thông tin vụn vặt cho mấy tờ báo thường được gọi là báo lá cải? Phải chăng Thượng đế, vũ trụ, trăng sao, biển cả, tôn giáo… mới là đối tượng của thi ca?; chỉ nhìn thơ ca như vậy là một sai lầm và đấy cũng là một trong những cách một người mang tên nhà thơ sẽ giết chết thơ. Nhà thơ Walt Whitman (Mỹ) được coi là cha đẻ của thơ ca Mỹ nói “Thơ ở dưới chân bạn, chỉ cần cúi xuống nhặt lên”. Tôi hiểu câu nói đó là thơ ca ẩn giấu trong tất cả những gì chúng ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy và chạm được vào. Tất cả phụ thuộc vào con mắt của nhà thơ, phụ thuộc vào lương tâm của nhà thơ để mở tầng cuối cùng của hiện thực và mang thơ ca tới cho người đọc.
Chợt một ngày tôi nhận ra tôi
Từng lang thang dưới bầu trời chữ nghĩa
Tôi nghe được tiếng hát của mưa
Tiếng cười của nắng
Tiếng nói của cỏ cây
Tiếng rên của mây
Tiếng buồn của đất…
Tiếng núi đồi hoa cỏ yêu nhau!
Tôi nghĩ thế giới này có thể sẽ mất đi
Nhưng còn lại vần thơ nhân cách.
(Ngôn ngữ lên ngôi)
Những câu thơ trên là những câu thơ tôi muốn đọc lại nhiều lần. Đấy thực sự là một định nghĩa thơ của nhà thơ Phùng Hiệu. Nếu câu thơ “Chợt một ngày tôi nhận ra tôi/ Từng lang thang dưới bầu trời chữ nghĩa” gợi mở ra vô tận như một bông hoa đang nở thì câu thơ “Tôi nghĩ thế giới này có thể sẽ mất đi/ Nhưng còn lại vần thơ nhân cách” lại tinh kết lại nột hạt cây bền vững. Nói điều này là tôi muốn nói đến một đặc điểm như là một phong cách của thơ Phùng Hiệu. Nhà thơ Phùng Hiệu còn là một nhà báo, đó cũng là một lý do khiến anh quan sát đời sống này một cách chi tiết và trung thực. Những hình ảnh, con người, sự việc trong thơ Phùng Hiệu trên bề mặt chỉ mang đến cho chúng ta những thông tin xã hội. Nhưng khi những hình ảnh ấy, những con người ấy và những sự việc ấy đã được Phùng Hiệu thi ca hóa. Khổ thơ dưới đây là một ví dụ xuất sắc về thơ Phùng Hiệu :
Đến một ngày em nhận ra em
Thì giấc mơ đã tan về chốn cũ
Chiếc Iphone thưa thớt khách làng…
Một đêm vắng trên màn hình ế ẩm
Gọi em về - sa thải một cơn mơ.
(Sa thải cơn mơ)
Từ câu thơ thứ nhất đến câu thơ thứ tư của khổ thơ trên nghiêng về thông tin xã hội. Nhưng câu thơ cuối của khổ thơ “Gọi em về - sa thải một cơn mơ” là sự bùng nổ của nghệ thuật. “Sa thải một giấc mơ” chứa tầng tầng ý nghĩa, đau đớn, nhân văn và ám ảnh lạ lùng.
Tập thơ Biên bản thặng dư này, có hai thách thức quá lớn không chỉ đối với nhà thơ Phùng Hiệu mà đối với hầu hết các nhà thơ. Thách thức thứ nhất là lòng quả cảm của nhà thơ khi cất tiếng về những bất hạnh, bất công, về sự thật trong thế giới người này. Thách thức thứ hai là thách thức của nghệ thuật thơ ca như tôi đã nói ở trên. Nhà thơ dám chọn lựa những hiện thực mà theo cách nhìn của nhiều người là ít thơ nhất. Khi viết về những vấn đề của xã hội, nhà thơ hoặc thi ca hóa những vấn đề thời sự ấy hoặc rơi vào tường thuật như một phóng viên xã hội tồi. Nhà thơ Phùng Hiệu đã đi qua cả hai thách thức đó. Anh đã đối mặt với những bất hạnh và bất công mà không hề sợ hãi và anh đã thi ca hóa được những thô nháp, trần trụi của đời sống. Khi đọc hai câu thơ: “Khi sự thật không thể nào giết chết/ Ngài phải giết người nói lên sự thật - vì sao?” tôi đã rùng mình. Đó là lời thách đấu đối với những thách thức, những đe dọa khi một nhà thơ bước vào trận chiến đấu bằng ngôn từ cho lẽ phải. Và đó thực sự là sứ mệnh của nhà thơ. Phùng Hiệu đã không ngủ quên trêm tấm thảm nhung dệt lên bởi những mỹ từ mà đang bước trên con đường sỏi đá và gai góc. Toàn bộ những gì anh viết trong tập thơ này đã minh chứng điều ấy.
Mọi sự thật diễn ra trên thế gian này là sự thật dành cho thơ ca, nuôi dưỡng thi ca và xác lập tư cách nhà thơ. Nhưng sự thật lớn hơn thế là sự thật trong trái tim nhà thơ trước đồng loại. Và nhà thơ Phùng Hiệu đã mở ra sự thật ấy.
Thị xã Hà Đông, 21/8/2019
N.Q.T
(SHSDB35/12-2019)
“Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.
Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.
Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.
Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.
Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.
Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.