Sự hoan hỷ vô tận

10:34 06/10/2022

NGUYÊN QUÂN

Đôi khi trong sự trầm lặng tĩnh mịch thường hằng, và những con người quen sống với sự tĩnh lặng ấy thường vô tình không nhận thấy những sự thay đổi chung quanh vì nó cũng âm thầm không xôn xao ầm ĩ.

Quang cảnh nhà dân sống quanh Kinh thành Huế trước khi di dời - Ảnh: vov

Tôi cũng không ngoại lệ dù mỗi ngày vẫn đi qua, vẫn sinh hoạt loanh quanh khu vực Nội thành của xứ sở vốn nổi danh trầm lắng như thơ, nhưng bận bịu bao nhiêu công việc mưu sinh nên cũng ít quan tâm đến sự di biến ít liên quan đến bản thân mình. Bất chợt sáng nay có người bạn ở xa về, sau một hồi rủ nhau ra quán cà phê tán gẫu ở con đường được dân Huế gọi là đường phượng bay, ông bạn lại muốn tôi thồ đi thăm lại nơi anh ta từng trú trọ trước kia. Trong trí nhớ của tôi, nhà ông bạn này ở một khu vực khá phức tạp, nhiều tay anh chị xăm mình có số má, mà mỗi lần tôi đến nhà chơi đều rón rén rụt rè giữa không gian chật hẹp đầy mùi mồ hôi, mùi gia cầm, rác thải, còn sợ va nhằm ai đó trong những con hẻm chật khư và những đôi mắt lầm lỳ vẩn đục.

Để bây giờ... Đứng ở đây, dựa lưng vào lâu thành Thượng Tứ phong rêu, tôi thật sự ngạc nhiên trước sự thay đổi đến không thể tin, đang trải dài trong tầm mắt. Trên bức tường thành tồn tại hàng trăm năm qua bao nhiêu dâu bể biến thiên, chiến tranh loạn lạc là một khoảng trống bao la, không còn bị dồn ứ những căn nhà, những mái lều chùm đụp chắp vá đủ loại vật liệu từng bám víu nhếch nhác trên bề mặt bức thành dày non chục mét. Thay vào đó là vết tích đập phá, hạ giải. Người bạn hình như ít ngạc nhiên về sự thay đổi lạ lẫm hơn tôi, có vẻ biết rành rẽ chuyện về những căn nhà đã và đang được giải tỏa để phục nguyên chân diện Kinh thành Huế. Xét cho cùng điều anh bạn ở xa về biết rành mạch hơn kẻ vẫn hàng ngày đi qua đi lại, cũng là chuyện đương nhiên, bởi trong thẳm sâu của chiếc hộp ký ức, luôn là sự lưu giữ tốt nhất và toàn vẹn nhất những tâm tư khắc khoải về một nơi chốn đầy vui buồn của tuổi thơ.

Anh bạn tôi có một tuổi thơ tạm gọi là dữ dội. Anh nhớ từng chút một về từng góc từng xó trên bức tường thành cổ, nhớ dấu tích đạn băm loang lổ phía bên ngoài tường thành, vô tình trở thành một loại thang mạo hiểm cho lũ trẻ con chơi trò thách đố trèo lên trụt xuống độ cao non chục mét để chơi đùa, câu cá thia đá trên bãi cỏ hoang bên bờ Hộ Thành hào. Ngoài những kỷ niệm ấy, chắc chắn anh bạn tôi thường xuyên giữ mối liên hệ với người thân kẻ quen còn sinh sống nơi đây. Nên mỗi đổi thay, biến động, dù ở rất xa anh vẫn hiểu rõ mồn một từng sự thay đổi ấy của quê quán xưa.

Nơi tôi đang đề cập, đang đứng là cuối đoạn tường lũy phía nam của Kinh thành Huế. Trên suốt chiều dài lịch sử Việt, qua nhiều vương triều chấp chính, đã có nhiều vùng đất thủ phủ. Và Kinh thành Huế thật sự là một kinh đô chính thức của đất nước Việt Nam thống nhất toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc đến Nam. Kinh đô Huế cũng là một vùng cố đô còn tồn tại nguyên bản những công trình kiến trúc vương triều, bởi nhà Nguyễn là đế chế phong kiến cuối cùng của người Việt, dù đã trải qua mấy trăm năm thăng trầm biến động. Sự tồn tại các công trình kiến trúc hoa lệ cung đình mang đầy đủ tinh thần mỹ thuật đặc trưng nhà Nguyễn đã được UNESCO đánh giá và công nhận là di sản văn hóa vật thể quý giá của toàn nhân loại.

Là cư dân kỳ cựu trên quê hương bản quán, tôi cũng có nghe nhiều về việc giải tỏa, tái định cư cho hàng ngàn hộ dân sống tạm bợ trên thượng thành; “Dân Thượng Thành” - cái tên gọi chung cho tất cả những ai ngụ cư ở trên hay dựa lưng nó. Sự hình thành của những cụm dân cư này có từ rất lâu nên không mấy ai nhớ rõ. Những người già sống ở đây cũng mù mờ về gốc tích lý do mình ngụ cư tạm bợ bởi qua bao nhiêu giai đoạn lịch sử, họ cũng chỉ được phép sống tạm chứ chưa bao giờ được cấp phép sở hữu đất đai cũng như giấy phép xây dựng. Cũng do nguyên nhân này mà trải qua hàng chục năm vẫn chỉ là những khu xập xệ, nói vậy cũng không quá đáng khi đi sâu vào từng ngõ ngách chùm đụp của các khu vực mà dân Huế vẫn gọi chung một cái tên là dân Thượng Thành hay dân Eo Bầu. Riêng cái địa danh Eo Bầu ở đây không chỉ đặt định cho riêng một địa điểm, như đa số người Huế vẫn lầm tưởng dành cho số dân cư tồn tại ở khu vực trên đường Ông Ích Khiêm từ cửa Thượng Tứ chạy dài xuống giáp ranh với đường Xuân 68, nơi mà người bạn tôi từng cư ngụ. Thật ra ở trong khu vực Nội thành Huế, có khá nhiều khu Eo Bầu. Có lẽ vì hệ thống kiến trúc của Kinh thành Huế có những khoảng đất bằng phẳng để bố trí tác chiến cho các đơn vị lính thủ thành, nằm giữa chân bức thành và con đường chạy men chân bốn phía, như ở đường Xuân 68, Ông Ích Khiêm, Lương Ngọc Quyến, Tôn Thất Thiệp đều có những lõm đất dễ “cắm cọc” ngụ cư như vậy.

Những khoảnh đất trống trải này vô hình trung trở thành nơi quần tụ các cụm cư dân đông đúc đến hàng trăm hộ dân đều được gọi là Eo Bầu. Và họ cũng chỉ là dân ngụ cư bất định trên một vùng đất thuộc về di tích văn hóa lịch sử, chẳng biết lúc nào sẽ bị giải tỏa nên nhà cửa chỉ che chắn bằng các loại vật liệu nhẹ, hay xây cất sơ sài nương tựa vào bức tường thành cổ. Nói vậy chứ cũng có khá nhiều trường hợp ngoại lệ, xen lẫn trong những căn lều tạm bợ là nhiều ngôi nhà được xây dựng khá vững, thường nằm sát đường chính, đa số họ nghĩ mặc nhiên được công nhận là khu dân cư trước khi chính quyền quyết định giải tỏa để trả lại diện mạo Kinh thành.

Trước đây các cấp chính quyền cũng ưu tư tìm phương án di dời số dân sống tạm bợ này, nhưng điều kiện để tái định cư cho hàng ngàn hộ dân luôn là vấn đề nan giải. Mặc dù những năm gần đây bằng rất nhiều nỗ lực, chính quyền đã giải tỏa, tái định cư thành công nhiều khu vực cần được di dời. Một đời sống không an cư thì khó lòng lập nghiệp nên cư dân sống tạm trên mặt tường thành đa số là người lao động phổ thông; vì thời gian dài hàng mấy chục năm cũng sinh sôi nẩy nở nhiều thế hệ nên đa số trong một ngôi nhà, căn lều cứ một hộ chính lại kèm theo các hộ phụ. Việc giải tỏa, cấp đất tái định cư theo lý thông thường thì đúng là một công tác tưởng chừng bất khả thi, chứ không đơn giản như cư dân vạn đò trên sông Hương, sông Hàng Bè hay những ngôi nhà bám dọc ven hai bờ sông Ngự Hà, một nhánh sông đào giữa lòng Kinh thành.

Giải tỏa di dời cũng là một loại công tác khó tìm được đồng thuận tuyệt đối giữa người dân và chính quyền, bởi nhu cầu của người dân luôn lớn hơn sự ước định của chính quyền. Sự đòi hỏi mỗi hộ, không kể chính hay phụ đều phải có đất riêng, dù nơi ở cũ một căn nhà nhỏ bé liền lưng vách với các nhà khác, diện tích không nở rộng thêm, nhưng dân số thì có khi đã tăng lên đến 4 hoặc 5 hộ được hợp pháp trên mặt giấy tờ hành chính, đã tách riêng bìa hộ khẩu với hộ chính. Nên không dễ gì tìm ra một quỹ đất đủ điều kiện tái định cư một lần cho người dân, và dù có vận động được đất cũng còn nan giải vấn đề ổn định sinh kế cho hàng vạn người dân phải lìa bỏ nếp sống vốn đã quen với sinh hoạt hàng ngày.

Người dân ngụ cư trên bề mặt bức tường Hoàng thành đa phần là dân lao động tự do, họ mưu sinh bằng đủ thứ nghề chỉ giới hạn trong môi trường quen biết xóm làng, như hàng ăn quán vặt, sữa chữa đồ gia dụng... Bây giờ di chuyển đến một môi trường hoàn toàn khác biệt, thì họ phải cần rất nhiều thời gian công sức để bắt kịp nhịp điệu mưu sinh phù hợp với bản thân và gia đình. Chính vì những khó khăn này mà chính quyền trước đây rất muốn cũng không thể giải tỏa triệt để các cụm dân cư này, mà chỉ cố gắng giải tỏa được một phần nhỏ nằm ngay phía chính Nam trước mặt Đại Nội. Khu vực này đã được giải tỏa triệt để từ trên tường thành ra đến vùng dân cư cũng chen chúc tạm bợ sống men theo dòng Hộ Thành hào, trả lại mặt tiền cho hướng chính nam Đại Nội, một đoạn hào được nạo vét, trồng sen, dựng lại bờ kè đá cổ phục nguyên hầu như trọn vẹn gương mặt hoàng kim lộng lẫy của chốn đế đô xưa.

Trở lại với chuyện giải tỏa triệt để. Vẫn theo sự hiểu biết tường tận của người bạn ở xa về, chính quyền hiện nay đã tìm ra một đáp án cho bài toán rất khó, khi hầu như toàn bộ số cư dân này đồng thuận chương trình giải tỏa một cách nhanh chóng hoan hỷ. Ngọn ngành gốc rễ của sự hoan hỷ kỳ lạ này là sự tự nguyện di dời gần như trăm phần trăm của người dân. Trước những quan tâm khá chu toàn về nhu cầu thiết yếu của dân, chính quyền đã đáp ứng thỏa đáng kế hoạch cấp đất tái định cư, hầu như hộ chính, hộ phụ đều có một mảnh đất nơi định cư mới.

Người dân còn được tạo điều kiện thoải mái, thuận lợi nhiều mặt từ tinh thần hướng nghiệp cho đến vật chất để những người tái định cư có một ngôi nhà, nghề nghiệp phù hợp trên vùng đất mới; một sự hoán đổi hoàn toàn có lợi cho người nằm trong khu vực giải tỏa. Với tâm lý bức bối đã rất nhiều năm phải sống chật chội tạm bợ trên một địa điểm không chủ quyền, không được phép xây dựng, lúc này họ có thể tạo lập cho mình một nơi an cư lạc nghiệp, được tìm thấy cảm giác có chủ quyền kiến trúc, sắp đặt nhà của mình tùy thích. Chính yếu tố tâm lý này là một thứ động lực lớn trong cuộc di dời nhanh chóng, hoan hỷ không dây dưa kiện tụng gì.

Chỉ nghe lời kể một phía thì chưa đủ tin hoàn toàn vào cái cụm từ hoan hỷ của ông bạn ở xa về, tôi đành dành chút thời gian vốn rất bận bịu để nhận lời yêu cầu chở anh ra tới vùng đất định cư mới của khá nhiều người thân quen của anh; nói đúng hơn là tôi tình nguyện vì tò mò nên theo chân ông bạn để mong được tận mắt nhìn và cảm nhận hết sự vui mừng được giải tỏa vốn hiếm họa này. Từ khu vực cư trú cũ, “xóm Eo Bầu Thượng Thành” nay đã thành bình địa, chạy thẳng một mạch trên con đường Đinh Tiên Hoàng ra đến cửa Hậu. Con đường thẳng tắp từ cửa Thượng Tứ “Đông Nam Môn” nối liền cửa Hậu “Chánh Bắc Môn” này cũng mới được khai thông mấy năm gần đây vì từ năm 1885 sau biến cố Thất thủ kinh đô, quân Pháp đã chiếm hẳn khu Mang Cá làm nơi đồn trú nên đã chặn luôn cửa Hậu không cho người dân thông thương. Chỉ nhỉnh hơn mười phút đồng hồ chạy xe, chúng tôi đã đến được nơi cần đến. Đó là vùng đất nông nghiệp Hương Sơ, đã được chính quyền thu hồi, phân lô đất nền, xây dựng hạ tầng đầy đủ tiện nghi của một đô thị hiện đại như đường sá, cầu cống, điện nước... mỗi lô 100m2 cho hộ chính và 70m2 cho mỗi hộ phụ. Thoáng thấy chỗ định cư mới, tôi phải thừa nhận rằng người dân “khu thượng thành” hình như không nghèo lắm. Cái hình như không nghèo đã bộc lộ ra hết ở vùng định cư mới. Cả một vùng đất trước đây là ruộng lúa mênh mông đã biến đổi thành một khu đô thị được quy hoạch rất hiện đại, với đường sá tráng nhựa bóng loáng, có những khoảng công viên cây cối đã lên xanh, xen lẫn với những dãy nhà tầng kiến trúc cầu kỳ rất bề thế sang trọng. Khu đô thị mới toanh, một giấc mơ bất khả thi đã thành hiện thực với người dân vùng giải tỏa, đúng là một đáp án không thể toàn mỹ tuyệt vời hơn cho một bài toán hóc búa mà bao năm qua của các cấp chính quyền Thừa Thiên Huế lao tâm khổ tứ đi tìm.

Sau một lúc đảo quanh, tham quan, anh bạn của tôi cũng tìm ra người quen xóm cũ. Dùng cụm từ hơi ngủng ngẳng này bởi nơi đây cũng toàn người quen ở xóm cũ, có bốc thăm lô khi di dời ra đây, thì cũng chỉ hoán đổi vị trí láng giềng cùng sống chung trên một xóm phố, cũng xúm xít bên nhau bên gánh bánh canh bà B, nồi bún bò bà C, tiệm sửa xe ông K... như đã từng mấy chục năm qua. Nên nói như lời anh bạn thốt lên đầy cảm xúc khi bắt tay hay ôm chầm những người thân quen của anh. Dù đất lạ mà người không lạ.

Thôi thì mặc cho họ vui vẻ hàn huyên kể lể đủ thứ kỷ niệm, chuyện đời sống, tôi chỉ nghe và cố đi tìm ẩn số sự Hoan Hỷ thật sự của dân tái định cư trên từng ánh mắt sáng trưng, tự hào của người lớn trong ngôi nhà hợp pháp chính chủ hay tiếng cười trong trẻo vui vẻ của lũ nhóc hồn nhiên chạy nhảy nô đùa trên sân nhà mình mà không sợ rơi từ trên thành cao xuống. Với những ai chưa từng biết về điều kiện sống của những người trên Thượng Thành, thì những gì tôi vừa cảm nhận, quả là thật bình thường, không đáng gọi là sự hoan hỷ. Chỉ riêng với tôi, người đã quá quen biết mấy xóm Thượng Thành, thì chỉ chừng đó thôi cũng đã vượt xa cái từ hoan hỷ thông thường. Và rồi đây, một vài năm sau nữa, mọi tàn tích hạ giải trên bề mặt Hoàng thành được dọn dẹp, được chỉnh trang trùng phục lại y như nguyên bản, dòng Hộ Thành hào bao quanh kinh thành được khai thông toàn vẹn y như dòng sông Ngự Hà hay ngôi trường đại học thời phong kiến Quốc Tử Giám, Tàng Thư Lâu đều đã được trả về đúng nguyên bản, thì có người dân Huế nào không thấy lòng hoan hỷ.

N.Q
(TCSH46SDB/09-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...